CHÚA NHẬT II PHỤC SINH-C
KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Cv5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gioan
19 Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !”
20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
21 Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.”
22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.
23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến.
25 Các môn đệ khác nói với ông : “Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp : “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”
26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em.”
27 Rồi Người bảo ông Tô-ma : “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”
28 Ông Tô-ma thưa Người : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”
29 Đức Giê-su bảo : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !”
30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này.
31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.'
SUY NIỆM 1: CỦNG CỐ NIỀM TIN PHỤC SINH
Lời Chúa: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Phục sinh hôm nay cho chúng thấy, sự xác tín niềm tin của Tôma sau khi gặp Đấng Phục sinh, nói lên nỗi niềm của Đấng giàu lòng thương xót không chỉ dừng lại nơi các tội nhân, mà ngay cả những kẻ yếu kém lòng tin:
Hiện ra Chúa trách Tô-ma,
Đồng thời chúc phúc cho ta tin Ngài.
Niềm tin son sắt chẳng phai,
Chúa đã sống lại không ai còn ngờ.
Cho dù thử thách giăng tơ,
Vượt qua tất cả tôn thờ Chúa thôi.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, xót thương và ban thêm đức tin cho chúng ta, để trong mọi biến cố của cuộc đời, chúng ta vẫn vững tin và tín thác vào Chúa. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đến đem ban bình an và xua đi những ưu phiền sợ hãi, để củng cố niềm tin cho chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa chúc phúc cho chúng con khi xác tín niềm tin vào Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Chúa Kitô Phục sinh không phải là sự kiện hiển nhiên có thể được chấp nhận dễ dàng. Ngay tâm trạng hoài nghi của các Tông đồ, nhất là của Tôma. Những ám ảnh về cuộc thương khó và khổ nạn của Chúa Kitô vẫn còn in đậm trong tâm trí của các Tông đồ. Ám ảnh này làm các Tông đồ chán nản và sợ sệt, nhưng Thiên Chúa đã kiên nhẫn giúp họ dần dần tiến sâu vào mầu nhiệm Phục sinh khiến họ phải reo ca lên: Chúa đã sống lại thật rồi. Alleluia!
Thưa anh chị em, Chúa đã sống lại thật rồi. Alleluia! Niềm vui này khởi đi từ các Tông đồ, “các ông vui mừng vì xem thấy Chúa”, và cũng là niềm vui cho toàn thể nhân loại. Vui vì nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta được thông phần vào đời sống mới, với tư cách là con cái Thiên Chúa, được đồng thừa tự với Chúa Kitô. Nếu sự chết là nỗi sợ hãi nhất của con người thì sự Phục sinh là niềm hy vọng lớn nhất cho kiếp người chúng ta. Sự nghi ngờ của các Tông đồ, lòng cứng tin của Tôma giờ đây đã trở nên bằng chứng đầy thuyết phục đối với chúng ta, và chúng ta vinh dự được lãnh nhận niền tin vào Chúa Kitô Phục sinh không phải bằng giác quan nhưng nhờ ân sủng “phúc cho ai không thấy mà tin”. Nhờ tin vào Chúa Kitô Phục sinh, các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đã quây quần bên nhau hợp nhất cầu nguyện, đồng tâm nhất trí với nhau. Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng, lời nói mà được thể hiện trong việc chia sẻ của cải vật chất, sẵn sàng góp công góp của, coi mọi sự làm của chung. Các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đã làm chứng cho nhau bằng chính đời sống đức tin mạnh mẽ, đời sống cầu nguyện sống động và đời sống bác ái chân thành. Chính cuộc sống yêu thương hiệp nhất về tinh thần và vật chất này sẽ trở thành lời mời gọi mọi người đón nhận Tin mừng Chúa Kitô Phục sinh. “Cứ dầu này chúng ta nhận biết chúng ta là con cái Thiên Chúa là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thực hành các giới răn của người”. Lòng tin luôn vượt quá những gì chúng ta có thể chứng minh. Lòng tin vào Chúa Kitô Phục sinh mời gọi chúng ta phải dấn thân tin tưởng và hoán cải để có thể gặp được Đấng Phục sinh vẫn đang hiện diện trong đời sống mỗi người chúng ta.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em
Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật của Lòng Thương Xót Chúa. Giáo hội kính Lòng Thương Xót của Chúa. Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sám hối vì những thiếu sót và lầm lỗi của mình để có thể từ đó cảm nghiệm sâu xa về tình yêu và Lòng Thương Xót của Người. Thánh Gioan Tông đồ đã định nghĩa, Thiên Chúa là Tình Yêu. Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì Lòng Thương Xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài đối với kẻ tội lỗi.
Chuyện kể rằng, một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ngài luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ngài đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng, Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra Lòng Thương Xót của Thiên Chúa và nhìn nhận mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu. Đồng thời, nhìn lại thái độ của mình khi đối xử với những người tội lỗi, những người xúc phạm đến mình để từ đó, tỏ lòng xót thương đối với anh chị em mình. Nguyện xin Chúa Kitô là Đấng Phục sinh vinh hiển, Đấng giàu Lòng Thương Xót, xin xót thương và ban ơn bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
SUY NIỆM 2: BÀI HỌC TỪ TÔMA
Hành trình đức tin của Thánh Tôma được nhắc đến trong bài Tin mừng hôm nay, để lại cho chúng ta một kinh nghiệm xương máu và một phong cách sống đáng để cho chúng học hỏi.
Kinh nghiệm ấy được rút ra từ chính sai lầm của Thánh Tôma. Tin mừng cho biết, khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ trong nhà tiệc ly, Tôma vắng mặt. Ông đã tự tách mình ra khỏi anh em – ra khỏi cộng đoàn các tông đồ.
Kết quả là gì? Tôma yếu lòng tin! Ông cứng lòng đến nỗi thử thách cả Thiên Chúa: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25).
Cộng đoàn thân mến, Giáo Hội đang rất lo ngại và trăn trở cho thực trạng đức tin của chúng ta hôm nay, đặc biệt là nơi những người trẻ, bởi sự tụt dốc nhanh lẹ của nó. Và một trong những lý do đó là: nhiều người trẻ Công giáo ngày nay đang tách đời sống đức tin của mình ra khỏi các nhịp sống đạo đức của cộng đoàn giáo xứ. Họ giữ đạo theo quan điểm cá nhân, chứ không theo hướng dẫn của Giáo Hội; không còn coi trọng các Thánh lễ thường ngày, kể cả Thánh lễ ngày Chúa nhật; xem nhẹ các việc đạo đức bình dân như việc chầu Mình Thánh Chúa, lần hạt Mân côi, giờ kinh gia đình, đọc kinh tối sáng…
Tách mình ra khỏi đời sống đạo đức của cộng đoàn đã từng là sai lầm của Thánh Tôma, và đang là sai lầm của nhiều tín hữu hôm nay, và đó phải là kinh nghiệm xương máu cho chúng ta.
Nếu như Tôma đã củng cố lại được đức tin của mình, khi ông hòa nhập lại nhịp sống với cộng đoàn các tông đồ, thì đức tin của chúng ta hôm nay chỉ được gìn giữ, bảo vệ và lớn lên khi mỗi người biết trân trọng và gắn bó đời mình với nhịp sống đạo của giáo xứ. Thiết nghĩ đó là điều mà mỗi người cần suy nghĩ lại.
Bên cạnh đó, cá tính của Thánh Tôma cũng đáng để chúng ta học hỏi.
Đối với Tôma, việc tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh phải là một niềm tin kiên vững, chứ không là một sự mê tín. Do đó, ông quyết định không nghe theo những lời nói suông và những lời đồn đại không có cơ sở. Tôma đã thẳng thẳn nói lên quan điểm và suy nghĩ của riêng mình. Ông muốn chính ông phải là người được đụng chạm đến Đấng Phục Sinh thì ông mới tin.
Tuy Thánh Tôma là một con người rất cá tính, thẳng thắng và rõ ràng, nhưng một khi khám phá ra được chân lý, khám phá ra được những điều chân thiện mỹ, một khi nhận ra được cái gì đẹp ý Chúa, cái gì là tốt, cái gì hoàn hảo; Tôma sẵn sàng để cho mình bị khuất phục.
Ông không vì cái sĩ, cái nhục mà từ chối cái hay, cái đẹp, nhưng đã chân thành đón nhận và sẵn sàng tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Kitô đã chết và nay đã sống lại.
Các bạn trẻ đang tham dự thánh lễ hôm nay rất thân mến, tuổi trẻ là khoảng thời gian đầy hứa hẹn. Trong đó hàm chứa cả những hoài bảo ước mơ, bao gồm cả những cá tính, bản lĩnh và lập trường sống của mỗi người. Chúng ta có quyền lý luận để bảo vệ cho những suy nghĩ và chọn lựa của riêng mình.
Tuy nhiên, người có bản lĩnh là người dám từ bỏ những quan điểm sống của bản thân khi thấy nó không còn phù hợp, sẵn sàng đón nhận những điều hay điều đẹp từ những người xung quanh, dám bỏ điều chưa tốt để chọn làm điều tốt, thậm chí là dám bỏ cả điều tốt để chọn điều tốt hơn.
Tôma tuy cứng lòng tin nhưng lại được người ta ngưỡng mộ là vì ông tôn trọng cái đúng, ông trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.
Chúng ta được mời gọi hãy tiếp tục phát huy những năng lực của người trẻ và vươn mình đến tương lai, nhưng đừng quên dừng lại nơi những điều hay điều đẹp và khiêm tốn đón nhận nó, đừng quên lĩnh hội những chân lý sống có ích cho đời mình. Những điều hữu ích đó có thể đến từ lời dạy của Thiên Chúa và Giáo Hội; có thể đến từ cha mẹ và những người khôn ngoan; và cũng có thể đến từ những bạn bè cùng trang lứa.
Tóm lại, qua hình ảnh của Thánh Tôma, lời Chúa hôm nay nhắn nhủ với chúng ta hai điều. Thứ nhất là hãy gắn bó đời mình với nhịp sống đạo của cộng đoàn một cách thật tử tế, để bảo vệ đức tin của mình. Thứ hai là hãy trân trọng và đón nhận cái hay cái đẹp mà cuộc sống và những người xung quanh mang lại, để hoàn thiện bản thân.
Cầu chúc anh chị em, đặc biệt là các bạn trẻ gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống, cả đời lẫn đạo. Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM 3: MỞ RA NHỮNG CÁNH CỬA ĐÓNG KÍN
Sau ngày thứ sáu đau thương, các tông đồ đang ở trong tâm trạng sợ hãi, hoang mang và tuyệt vọng. Tin mừng diễn tả: “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kin, vì sợ người Do thái”, đó là nỗi sợ bên ngoài, sọ bị bách hại, sợ những ánh nhìn của người khác. Nhưng, có người còn cho rằng, các ông sợ “chính mình”, không dám đối diện với chính mình, đối diện với lựa chọn quay lưng lại với Chúa của mình. Các ông đóng cửa lòng mình lại. và điều gì đã xảy ra? Chúa đến với các môn đệ, ban cho họ “bình an” và cho họ xem “tay và cạnh sườn”, tức là những vết thương đã chịu nơi cuộc khổ nạn. Chúa không trách các môn đệ vì đã bỏ Chúa, nhưng đã trao lại cho các môn đệ cái kinh nghiệm của tình yêu nơi những vết thương ấy cũng như trao ban lại “sự sống”, sức sống mới cho các môn đệ qua việc “thổi hơi”. Nhờ đó, các ông được bình an.
Hơn nữa, bài tin mừng còn diễn tả cho chúng ta về Tôma. Khi các môn đệ nói với ông: “chúng tôi đã thấy Chúa”, ông đã không tin: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn người, tôi chẳng có tin”. Người ta thường nói ông là người cứng lòng tin, nhưng không phải vậy, mà ông là người mất niềm tin, mất niềm tin vào chính mình, mất niềm tin vào các môn đệ, vì chính ông và những người môn đệ đã phản bội và trốn chạy khỏi Chúa trong cuộc khổ nạn. Ông nghĩ rằng, Chúa không thể đến với những người đã phản bội, đã chối mình. Do đó, chúng ta cũng nhận ra những căng thẳng trong căn phòng đóng kín ấy suốt tám ngày. Các môn đệ đã bất lực trong việc dẫn Tôma trở về lại với cộng đoàn, để hiệp thông với cộng đoàn trong niềm tin Chúa sống lại. Chúa đã hiện ra một lần nữa với Tôma trong cảm nghiệm mất niềm tin của ông và đưa ông tin trở lại. ông đã vượt qua được nỗi sợ về sự ám ảnh của lòng tin và ông tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, Lạy thiên Chúa của con”.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ
Thế giới hôm nay chứng kiến những căn phòng đóng kín. Có những người chôn mình trong quá khứ vì những tổn thương do lời nói, hành động của ai đó; hay vì những đau khổ đã gặp phải trong cuộc đời. có những người dìm mình trong những “an toàn giả tạo” như tiền tài, danh vọng hay quyền lực, để rồi tìm kiếm nó đến nỗi quên cả tiếng lương tâm mà đánh mất chính mình. Có khi chúng ta cũng đang ở trong căn phòng đóng kín của chính mình. Chúng ta không dám đối diện với chính mình, cũng như không dám mở lòng mình ra với Thiên Chúa và với anh chị em của mình. Vì những nỗi đau, vì những tổn thường mà người khác gây ra cho mình, chúng ta đóng lòng mình lại với họ.
Chúa Nhật hôm nay là Chúa Nhật kính lòng Thương xót Chúa. Cái hay mà Tin mừng hôm nay diễn tả cho chúng ta cũng diễn tả về lòng thương xót, đó là Chúa bất chấp các môn đệ có cứng lòng, có đóng cửa lòng mình lại, Chúa vẫn đến với các ông. Chúa đã hiện ra trong căn phòng đóng kín để mở toang cánh cửa tâm hồn của các ông. Chúa Phục sinh vẫn đang hiện diện và ban bình an chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta hãy nhìn xem “bàn tay và cạnh sườn” bị đâm thâu vì yêu thương với lời nói dịu dàng: “Đừng cứng lòng nhưng hãy tin”.
Xin Chúa mở đôi mắt tâm hồn chúng ta để chúng ta nhận ra được Chúa Phục sinh đang hiện diện với chúng ta, đặc biệt là hiện diện trong những đau khổ, những tổn thương cũng như những nỗi sợ của chúng ta; giúp chúng ta bước đi trong đời sống với sự bình an của Chúa phục sinh, biết mở lòng mình ra với tha nhân trong sự cảm thông, tha thứ. lúc ấy chúng ta sẽ được như Lời Thánh Phaolô nói: “anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người”.
JB. Linh Ân
SUY NIỆM 4: THÁNH TÔMA VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Chúa nhật II phục sinh, Giáo hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.
Lòng thương xót của Chúa được biểu lộ qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao sự bình an, là Chúa cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.
- Đức tin của Tôma
Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại : khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ : Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.
Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.
Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được’. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng ‘lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi‘. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình : “Lạy Thiên Chúa của con“. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.
Thần học gia Hans Kung nói : “người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi”. Nhà thần học Paul Tillich nói : “sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh”. Còn Thomas Merton bảo: “người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin”. Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: “Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững”. Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).
2. Lòng mến của Gioan
Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma : “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.
3. Lòng Chúa Xót Thương
Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu đức tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.
Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn Dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.
Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.
Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa”. Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 5: TIN VÀO CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Trong nhóm Mười Hai Tông Đồ, có một người tên là Tôma. Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện “cứng lòng tin” của ông. Khi các Tông đồ kể cho tông đồ Tôma rằng họ đã thấy Chúa, thì ông liền tuyên bố: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Có lẽ vì lời tuyên bố này mà người ta đã đặt thánh Tôma làm “bổn mạng” của những người luôn đòi những bằng chứng hữu hình và khoa học không thể chối cãi được về Thiên Chúa, về Chúa Kitô như một điều kiện để tin vào Chúa Kitô và sự phục sinh của Người.
Tông đồ Tôma, cũng gọi là Đi-đy-mô, nghĩa là “Sinh đôi”. Nhưng Tin Mừng lại không nói về người sinh đôi với Tôma, nên chúng ta có thể nói rằng, chúng ta chính là người anh-chị-em song sinh của ngài mỗi khi chúng ta do dự và hoài nghi, hoặc đòi hỏi phải có những bằng chứng cụ thể thì mới tin. Nhưng nếu chúng ta nhìn nhận mình giống thánh Tôma trong thái độ “cứng lòng tin” của ngài, thì chúng ta cũng phải đi tiếp con đường đức tin như thánh nhân vậy. Thánh Tôma không ở mãi trong thái độ cứng lòng tin, đứng trước Đức Kitô Phục Sinh ngài đã hoàn toàn suy phục chân lý đức tin khi tuyên xưng Người là Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Đức tin của chúng ta cũng cần phải đạt đến thái độ suy phục này, để rồi trước Chúa, chúng ta tuyên xưng Người là “Thiên Chúa của con”.
Câu chuyện Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ và cho thánh Tôma nhắc nhở chúng ta về hai chiều kích quan trọng của đức tin, đó là chiều kích cá nhân và tập thể. Trước hết, đức tin của mỗi chúng ta là kết quả của một quyết định cá nhân, và quyết định này luôn phải được lặp đi lặp lại. Nhưng đức tin này lại được nuôi dưỡng và lớn lên trong một tập thể, một cộng đoàn. Không ai có thể là một Kitô hữu trưởng thành mà không cần đến cộng đoàn. Đó là lý do tại sao chúng ta phải đến nhà thờ, không chỉ để thực hành niềm tin của mình, nhưng còn để sống, để chia sẻ, hiệp thông và nâng đỡ nhau trên con đường đức tin, và cùng với anh chị em mình vượt qua những hoài nghi nhằm đạt đến sự viên mãn của đức tin
Chúa Giêsu nói: “Tôma, vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”Lời này vẫn được Chúa Giêsu lặp lại với hàng triệu Kitô hữu từ hai ngàn năm nay, và với mỗi người chúng ta hôm nay. Chắc chắn không ai trong chúng ta được gặp Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt, được chạm đến Người như các Tông đồ, nhưng chúng ta vẫn tin Người hiện hữu và hằng sống nhờ vào lời chứng của các Tông đồ được lưu truyền lại trong Giáo hội. Chúng ta không nhìn thấy Chúa, nhưng chúng ta tin rằng Người hiện diện qua các dấu chỉ như qua các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể; qua Kinh thánh bằng việc đọc và suy gẫm Lời Chúa; qua các buổi nhóm họp và cầu nguyện của các Kitô hữu, như Chúa Giêsu đã nói: “Ở đâu có hai ba người họp nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18,20) ; qua những người làm việc bác ái, những người xây dựng công lý và hòa bình,...
Tuy nhiên mấu chốt của bài Tin Mừng hôm nay không chỉ là câu chuyện về tông đồ Tôma và lời tuyên xưng của ông, nhưng còn là việc Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ vào ngày Người phục sinh. Đó là một cuộc hiện ra điển hình tổng hợp tất cả những lần hiện ra khác, gồm hai mục đích:
Mục đích thứ nhất, cuộc hiện ra này làm nảy sinh niềm tin của các môn đệ vào Chúa Giêsu, Đấng Phục sinh. Người ở đó giữa họ và ăn uống với họ. Trong bốn mươi ngày, các môn đệ tiếp xúc và trò chuyện nhiều lần với Chúa Kitô, nhờ đó đức tin của họ được cũng cố. Họ tràn ngập niềm vui và bình an. Và Người hứa sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế.
Mục đích thứ hai là, nhờ lòng tin được củng cố, cùng với lệnh truyền sai đi với năng quyền và Thánh Thần được ban cho, các tông đồ sẵn sàng và mạnh dạn ra đi, tiếp tục sứ mệnh của Thầy là loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
Chúa Giêsu sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Người ban cho họ Thánh Thần, ban quyền năng tha tội và các quyền giải thoát khỏi ác thần và sự dữ.
Ta có thể thấy rằng, vào chính ngày lễ Phục Sinh, Giáo hội đã được khai sinh vì hội đủ các yếu tố cấu thành của nó:
Thứ nhất, một cộng đoàn thường xuyên họp nhau, nhất là vào “ngày thứ nhất trong tuần” của người Do Thái, tức là Chúa nhật, ngày Chúa Kitô phục sinh; họ cử hành nghi thức “bẻ bánh”, tức là Bí tích Thánh Thể; và đây là một cộng đoàn gồm những người tin vào Chúa Giêsu, Đấng Phục sinh. Đó là một cộng đoàn “Kitô giáo”, bởi vì Chúa Kitô ở giữa cộng đoàn này.
Thứ hai, cộng đoàn này được Đấng Phục Sinh ban Thánh Thần để được sai đi và được trao quyền năng để thi hành sứ vụ.
Một cộng đoàn họp nhau nhân danh Chúa Kitô và có Chúa Thánh Thần hoạt động giữa họ, đó là hai yếu tố tối thiểu để chúng ta có thể nói, việc nhóm Mười Hai tụ họp và được lãnh nhận Thánh Thần của Đấng Phục Sinh là sự hình thành đầu tiên của Giáo hội.
Giáo hội là chính chúng ta. Khi chúng ta họp nhau cầu nguyện và cử hành thánh lễ, chúng ta làm cho Giáo hội của Chúa trở nên sống động và hữu hình. Qua Giáo hội, Thiên Chúa ban cho chúng ta Thánh Thần của Người, lương thực hằng sống, sự bình an và ân sủng của Người. Nơi Giáo hội, Chúa trao cho chúng ta sứ mạng loan báo Tin Mừng và trở nên những chứng nhân Nước trời.
Ước gì mỗi chúng ta luôn ý thức vị trí cao quý của mình trong Giáo hội để luôn sống gắn bó với Giáo hội, tích cực cộng tác trong việc xây dựng Giáo hội, và làm cho niềm vui Phục sinh và Tin Mừng cứu độ được loan báo đến cho mọi người. Amen.
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
SUY NIỆM 6: CHÚA LÀ ĐẤNG GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
1- Chúa Phục Sinh, chuyện có một không hai
Câu chuyện đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm mà chúng ta đang tưởng nhớ và cử hành hôm nay là câu chuyện Đức Giêsu thành Nadarét chết và sống lại, chuyện thật như bịa, chuyện có một không hai trong lịch sử nhân loại, chuyện quá mới mẻ gây ngạc nhiên đến mức không thể tưởng tượng, không thể tin nổi!
Quả thế, sau khi thấy thầy Giêsu bị treo trên cây thập giá và chết một cách nhục nhã đau đớn, các Tông Đồ trong đó có Tôma thất vọng và bỏ cuộc. Niềm tin của họ bị khủng hoảng. Chỉ có con đường duy nhất là “về vườn” để kiếm sống. Việc Chúa sống lại là chuyện “động trời,” không ai dám nghĩ tới.
Tuy nhiên, chính Đấng Phục Sinh đã hiện ra với các phụ nữ, với hai môn đệ trên đường Emmaus, và với nhiều Tông Đồ khác khi họ họp mặt. Trong những lần đó, Tôma (biệt danh là Điđimô) không có mặt. Họ kể lại: “Chúng tôi đã được thấy Chúa” (Ga 20,22). Nhưng Tôma vẫn không tin nếu không trực tiếp nhìn thấy các dấu đinh của Người (x. Ga 20,24). Tám ngày sau, họ lại họp nhau và có Tôma ở đó. Chúa hiện ra và tỏ cho ông thấy các dấu đinh. Tôma mới tin và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,29).
2- Ý nghĩa của biến cố phục sinh
Qua biến cố phục sinh, chúng ta rút ra những ý nghĩa sau đây:
1) Việc Chúa Giêsu chết bày tỏ tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa. Còn việc Chúa sống lại minh chứng quyền năng cứu độ của Người. Thiên Chúa chiến thắng sự dữ và thần chết. Nhờ sự vâng phục, Đức Kitô được Thiên Chúa Cha siêu thăng, tặng ban danh hiệu là “Đức Chúa và là Đấng cứu độ duy nhất và phổ quát” của nhân loại. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ cho chúng ta (x. Cv 4,12).
Vì thế, trong Thông Điệp Dives in Misericordia, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Chúa Giêsu Kitô bị hành hạ và chịu đau khổ vì xót thương chúng ta, thật quá mọi mức độ có thể tưởng nghĩ được. Cả sau biến cố phục sinh, thập giá không ngừng nói về Thiên Chúa là Cha, Ðấng tuyệt đối trung thành với tình thương muôn đời của Người đối với con nguời. Tin vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa” (số 7).
2) Đức Kitô Phục Sinh củng cố niềm tin cho các môn đệ và cho chúng ta. Như thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả Đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14). Nếu Chúa không sống lại, sẽ không có Giáo Hội và không có cộng đoàn chúng ta như hôm nay.
3) Đức Kitô Phục Sinh chính là sứ giả của Lòng Thương Xót Chúa. Người mang đến cho các môn đệ và cho chúng ta những ân huệ mới: đó là sự bình an, Chúa Thánh Thần và ơn tha thứ.
Vì thế, mỗi lần Chúa hiện ra đều nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,21). Có Chúa Phục Sinh là có sự bình an. Có bình an là có tất cả. Sự bình an này quý giá, giúp chúng ta vững vàng trước mọi gian nan thử thách.
Đức Giêsu thổi hơi và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúng ta nhớ lại, khi sáng tạo con người, Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam, nhờ đó, ông có sự sống. Cũng vậy, trong những lần hiện ra, Đấng Phục Sinh thổi hơi và ban Thánh Thần cho các Tông Đồ, để họ có sự sống mới. Đây quả là cuộc tạo dựng mới. Chúa Thánh Thần là Quà Tặng của Đấng Phục Sinh. Việc Chúa “thổi hơi và ban Thánh Thần” là ban cho Giáo Hội sự sống mới và sức mạnh mới.
Đấng Phục Sinh còn sai Giáo Hội ra đi với quyền tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha” (Ga 20,23). Tha thứ là dấu chỉ rõ ràng về lòng thương xót vô bờ bến của Chúa, được thể hiện qua bí tích Hòa Giải.
3- Sứ giả lòng Thương Xót Chúa
Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa. Một ngày nọ, Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Faustina Kowalska, sứ giả của Lòng Thương Xót, rằng: “Nhân loại sẽ không có hòa bình cho đến khi biết tin vào Lòng Thương Xót Chúa” (Nhật Ký, 300). Lòng Thương Xót là tặng phẩm mà Giáo Hội nhận từ Đức Kitô Phục Sinh và trao ban cho nhân loại ngay khi khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba. Mầu nhiệm của Lòng Thương Xót đã thay đổi tận gốc số phận của nhân loại.
Thánh nữ Faustina thấy phát ra hai tia sáng từ Thánh Tâm Chúa chiếu tỏa thế gian một cách dịu dàng. Theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ: “Hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước.” Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, là bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3,5; 4,14). Những tia sáng từ lòng nhân từ Chúa ban là niềm hy vọng đặc biệt cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi.
Mỗi Chúa Nhật đều là Chúa Nhật Lòng Thương Xót. Mỗi thánh lễ là nguồn mạch của Lòng Thương Xót. Bởi vì, thánh lễ tái hiện cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô để đền bù tội lỗi của chúng ta và toàn thế giới. Chúng ta được mời gọi hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để đón nhận Lòng Thương Xót Chúa. Hãy đến với bí tích Hòa Giải để lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nếu có ai cảm thấy mình quá yếu đuối và tội lỗi, thì hãy nhớ đến Lòng Thương Xót Chúa bao giờ cũng lớn lao hơn tội lỗi chúng ta. Chỉ có lòng thương xót Chúa ban cho chúng ta hy vọng chỗi dậy và tiến bước. Chúng ta hãy tín thác vào Chúa, đừng bao giờ sợ hãi, đừng bao giờ thất vọng!
Lạy Chúa, nhờ sự chết và sự sống lại, Chúa đã mạc khải Lòng Thương Xót Chúa cho loài người. Chúng con tín thác vào Chúa: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới. Amen!
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
SUY NIỆM 7: LẠY CHÚA TÔI
Khi nói về thánh Tôma, thường chúng ta hay gán cho ngài là kẻ cứng lòng tin. Chính vì thế, trong đời thường, gặp một ai còn xa rời đức tin, hay lạnh nhạt khi được nói về đức tin, hay tỏ ra ngoan cố trong việc lười biếng, bỏ bê việc đạo hạnh, người ta thường ví von so sánh họ: “Cứng lòng như Tôma”.
Thật ra, nơi đức tin và lòng mến của thánh Tôma với Chúa, nếu chúng ta chịu khó đào sâu, sẽ thấy đó là cả một bài học vô giá giúp ta sống đức tin của mình.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lổ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin”. Qua câu nói, ta thấy thánh Tôma là người thực tiễn. Thái độ thực tiễn của thánh Tôma là câu trả lời khả dĩ cho đức tin vào Chúa Phục Sinh của thời đại thực nghiệm của chúng ta hôm nay.
Nhờ thánh nhân lên tiếng, ta mới thấy rõ hơn thế nào là sự trăn trở, sự giằng vặt của đức tin mà nỗ lực cá nhân của chính ta có thể đáp lại mạc khải của Chúa.
Cũng chính nhờ thánh nhân, Hội Thánh có một bằng chứng xác thực cho tất cả những ai nghi ngờ về đức tin Phục Sinh của người Công Giáo: Bởi Chúa Giêsu đã đáp ứng đòi hỏi của thánh Tôma: Tám ngày sau, Chúa đã hiện ra với tất cả mọi bằng chứng rõ ràng nhất mà thánh Tôma đã từng đòi hỏi.
Chúa đã đánh đổ thách thức của thánh Tôma, qua đó, Chúa đánh đổ mọi nghi ngờ của con người thực nghiệm thời nay: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin”.
Trước bằng chứng hùng hồn về tất cả nơi Chúa Phục Sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu thừa nhận. Thánh nhân tuyên xưng đức tin bằng một lời tuyên xưng long trọng, đầy tư cách cá nhân của chính mình với Chúa Phục Sinh của mình: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Là Kitô hữu, chúng ta đã tin chắc chắn Chúa đã phục sinh. Vậy chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa: sống một cách yêu thương, hòa dịu với mọi người. Ta dẹp bỏ thói ích kỷ, tính tranh giành, vụ lợi.
Ta cần luôn chú tâm xả thân phục vụ những lợi ích chung như thực hành các công tác trong giáo xứ, các công trình phúc lợi của xã hội, thực hành đức bác ái mọi nơi, mọi lúc…
Đặc biệt, qua tất cả công việc, trong hết mọi ngày đời ta, ta luôn nghĩ đến việc truyền giáo, để làm cho mọi người tin Chúa, thờ phượng Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin hãy mở cho chúng con đôi mắt, để chúng con nhận ra Chúa qua tất cả mọi biến cố của đời sống.
Xin làm cho nhiều người còn chưa biết Chúa, được nhận biết và tôn thờ Chúa, nhờ đó, Nước Chúa phát triển khắp nơi trên thế giới này.
Xin cho những ai đã thờ phượng Chúa, nhưng sai lạc trong đức tin, biết mau chóng trở về, nhìn nhận một mình Chúa duy nhất là Đấng có sự sống đời đời mà thôi. Amen.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
SUY NIỆM 8: NIỀM TIN CỦA TÔI
Niềm tin không chỉ là sự ưng thuận cách máy móc. Niềm tin còn đòi hỏi những phản ứng tích cực như Toma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25)
Tự khẳng định là một trong những đặc điểm để xác định chính mình giữa mọi người. Tự khẳng định bằng một con đường ngay thẳng, chính trực, ý thức và tự do. Chúa muốn như thế đối với mỗi người chúng ta, chịu trách nhiệm về niềm tin và sống cuộc sống của mình chứ không ai khác. Niềm tin không chỉ là do ai đặt để cho, mà còn là niềm tin “tôi tin” trong đức tin “chúng tôi tin”.
Trong đời sống đạo, cha mẹ, ông bà tôi, anh chị em tôi đều dự lễ ngày Chúa Nhật, tôi cũng đi nhưng đi cho có. Tôi không ý thức điều ấy là cần thiết cho tôi nên tôi chỉ thấy điều phải làm. Trong đời sống, nếu tôi phải làm, tôi sẽ chỉ chiếu lệ, cho xong, tôi không biết mình là ai vì chẳng bao giờ biết tôi là ai và điều gì cần cho tôi. Tôi sống như mọi người quanh tôi sống, họ đứng ngoài dự lễ, tôi cũng làm như thế, nhiều người cho rằng chẳng tội lỗi gì tôi cũng sống theo vậy. Cuối cùng tôi chẳng có trách nhiệm gì với cuộc sống của tôi, cứ để nó trôi theo những cảm xúc của tôi. Thấy được là được, thấy tốt là tốt.
Tự tìm kiếm niềm tin là một hành vi tích cực, để biết tại sao tôi tin, niềm tin ấy cho tôi những gì? Toma đặt câu hỏi của mình về niềm tin là bộc lộ một cá tính mạnh. Ông dám tuyên bố với mọi người, niềm tin cần được kiểm chứng. Mặc dù Tôma cũng đã sống với Chúa bao năm, chứng kiến sự chết của Chúa, vẫn nghe Chúa đã sống lại. Tất cả những điều đó vẫn là điều “chúng tôi tin”. Vấn đề “tôi tin” đòi hỏi với chính tôi. Tôi sẽ đến tham dự với anh chị em tôi trong cử hành Thánh Lễ một cách nghiêm túc, giống như Tôma đến dự buổi họp mặt với các tông đồ tám ngày sau đó. Tôi tham dự với một cách khiêm nhường cùng với anh chị em của tôi trong cầu nguyện, xin ban cho tôi thêm niềm tin.
Niềm tin của tôi là một niềm tin sống động, không chỉ một lần tin mà là mỗi ngày sống xác tín niềm tin. Tôi hạnh phúc sống trong niềm tin của tôi, đòi hỏi tôi nỗ lực tìm biết và sống niềm tin của mình, chứ không do người khác nhận định. Chính tôi tìm thấy niềm tin của tôi trong điều chúng tôi tin là cần thiết. Chúa sẵn sàng cho tôi thấy niềm tin của tôi, như đã sẵn sàng cho Tôma thọc ngón tay vào lỗ đinh, để củng cố xác tín của tôi.
Niềm tin tôi sống một cách sâu xa có thẻ diễn tả theo cách của Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Một niềm tin sống dồi dào, đạt tới đỉnh cao hạnh phúc. Đó là niềm tin mà chúng ta hằng ngày xin Chúa ban cho để vươn tới.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
SUY NIỆM 9: LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA BIẾN ĐỔI CON NGƯỜI
Người ta thấy rằng, nhà tù chỉ có thể lấy đi tự do của một tội phạm, nhưng chưa chắc có thể giáo dục và thay đổi được cuộc đời con người. Trong nền giáo dục hiện đại, người ta cũng thấy rằng, hình phạt có thể ngăn chặn một số hành vi sai lỗi, nhưng chỉ có tình thương mới có thể cảm hóa và biến đổi được trái tim con người. Lịch sử cho thấy, Thiên Chúa đã dùng sư phạm của tình yêu để giáo dục và giúp con người biến đổi.
Chúa nhật thứ hai Phục sinh được Đức Thánh Giáo Hoàng JP II chọn là Chúa Nhật của Lòng Thương Xót Chúa, vì các bài đọc trong thánh lễ đã để lại vô số dấu chỉ tình thương của Chúa Phục Sinh dành cho các tông đồ và cho chúng ta. Tin Mừng Gioan thuật lại hai cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh. Cả hai cuộc hiện ra này, Chúa Phục Sinh đã thể hiện tình thương đặc biệt của Ngài đối với các tông đồ.
Lần thứ nhật xảy ra vào buổi chiều ngày phục sinh. Lúc đó, các môn đệ của Chúa sống hoàn cảnh hết sức tội nghiệp, đáng thương. Họ như rắn mất đầu, rơi vào tình trạng mất phương hướng và lo sợ, sống khép kín trong ngôi nhà đóng cửa cài then, không giao du, không tiếp xúc với ai. Tình trạng sống buồn bã ấy không khác gì một cuộc sống tuy còn thở nhưng tâm hồn đã chết vì suy sụp sau cuộc tử nạn của Thầy. Chúa Phục Sinh biết hoàn cảnh của các học trò mình. Vì thế, ngay chiều ngày thứ nhất, Ngài đã hiện ra, đứng giữa các ông. Sự hiện diện này như sự hiện diện của một người cha trước mặt con cái, sự hiện diện có sức an ủi và gia tăng niềm vui, nghị lực sống cho các tông đồ.
Món qùa đầu tiên Chúa Phục Sinh trao tặng cho các tông đồ là lời : Bình an cho các con. Đây không phải là một lời cầu chúc như chúng ta vẫn chúc nhau, nhưng đây thực sự là một tình trạng, một ơn được ban cho các tông đồ để biến đổi tâm hồn và cuộc đời các ông. Chúa Giêsu không hề khiển trách các ông về sự nhát đảm, bỏ trốn hoặc chối Chúa trong cuộc khổ nạn. Ngài đã quên hết mọi đau khổ các ông đã gây ra cho Ngài. Lòng thương xót của Chúa khiến Chúa Phục Sinh không kìm hãm được tình yêu. Ngài cho các tông đồ xem tay và cạnh sườn Người, Người muốn cho các ông tận mắt được nhìn thấy dấu vết yêu thương để có thể cảm nhận được tình yêu tột cùng của Ngài.
Món quà tiếp theo là món quà sự sống mới của Chúa Phục Sinh, đó là món quà Thánh Thần, được trao cho các tông đồ. Ngài thổi hơi và phán : Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Nếu như ngày xưa Thiên Chúa đã thổi hơi vào nắm đất để ban cho Adam sự sống, thì hôm nay, Chúa Phục Sinh đã thổi một hơi thở mới là Thánh Thần vào tâm hồn các tông đồ. Hơi thở này là một cuộc tạo dựng mới, làm nên một thế giới mới, con người mới, sức sống mới cho nhân loại và cho vũ trụ. Từ đây, con người và vũ trụ không còn sống con người cũ nữa, nhưng sống với trái tim mới, với con người mới, con người mang sức sống Phục Sinh.
Kế đến, Chúa Phục Sinh đã thể hiện lòng thương xót, thông cảm đối với những giới hạn, yếu đuối của con người, vì thế, Ngài đã trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài để tha thứ : Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm giữ. Tha thứ là thể hiện sâu xa nhất lòng xót thương của Thiên Chúa là Cha. Đức Thánh Cha Fancis đã khẳng định : Tội lỗi không thể ngăn cản được lòng thương xót của Thiên Chúa và Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi để tha thứ cho con người.
Trao ban cho các tông đồ quyền tha thứ, Chúa Phục Sinh muốn các ông trở thành “hiện thân” của Chúa, thành cộng tác viên, người nối dài lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa cho đến tận thế. Qua các tông đồ, cái chết và sự phục sinh Chúa không dừng lại, nhưng được tiếp tục trao ban cho nhân loại bằng ơn tha thứ và chữa lành của Thiên Chúa. Như thế, tha thứ là hoa quả lớn lao nhất của cuộc phục sinh mà Chúa Giêsu để lại cho Giáo Hội.
Lần hiện ra thứ hai của Chúa Phục Sinh mang tính cụ thể hơn nữa. Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ là một tình thương chung chung, nhưng là một tình thương đụng chạm đến từng cá nhân mỗi người. Cuộc hiện ra tám ngày sau, có thể nói là cuộc hiện ra dành riêng cho Tôma, một người muốn kiểm chứng cuộc phục sinh của Chúa bằng kinh nghiệm cá nhân : Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin. Chúa Phục Sinh như muốn đáp ứng sự khao khát tìm kiếm dấu chỉ đức tin của Tôma. Vì thế, khi hiện ra, Chúa Phục Sinh đã gọi đích danh ông, cho ông có một cơ hội tiếp xúc, đụng chạm đến Đấng Phục Sinh. Ngài nói với ông : Hãy đặt ngón tay con vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay con ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.
Chúa Phục Sinh đã hết sức yêu thương và kiên nhẫn với học trò của mình. Chúa biết rằng, việc đón nhận mầu nhiệm Phục sinh không phải là điều dễ dàng. Chúa đã cho Tôma được xỏ bàn tay vào cạnh sườn của Chúa để có ông có thể đụng chạm đến trái tim thương tích của Ngài. Chạm vào vết thương của Chúa không phải là chạm vào vết đau mà Tôma được chạm vào tình thương của Chúa Phục Sinh. Một khi chạm vào tình yêu, con người được biến đổi. Khi chạm vào lòng thương xót của Chúa, giống như chạm vào một nguồn suối, từ đó mạch nguồn yêu thương của Chúa tuôn trào trên Tôma. Tôma đã đón nhận lời chứng của các tông đồ trong sự hồ nghi, thì giờ đây, với lòng thương xót của Chúa, niềm tin của ông đã đi đến một xác tín cá nhân : Lạy Chúa tôi ! Lậy Thiên Chúa của tôi.
Tin Mừng Gioan còn ghi lại lời chúc phúc của Chúa Giêsu dành cho chúng ta là thế hệ các tín hữu sau các tông đồ : Phúc cho những ai không thấy mà tin. Chúng ta vẫn đang tiếp tục được đón nhận lòng thương xót và đức tin qua các tông đồ và Giáo Hội. Chỉ khi chúng ta thực sự sống trong sự hiệp thông với các tông đồ, sống trong sự bao bọc của Giáo Hội, chúng ta mới có thể đón nhận được đức tin Chúa phục sinh và có thể dễ dàng đón nhận lòng Chúa thương xót qua Giáo Hội.
Tôma trước đây chưa thể đón nhận được mầu nhiệm Phục sinh, bởi vì ông đã tách lìa khỏi cộng đoàn các tông đồ. Vì một lý do nào đó, khi anh em vẫn tụ tập bên nhau chung quanh Simon, thì Tôma đã không hiện diện. Vì thế, khi anh em nói về việc họ đã được gặp Chúa Phục Sinh, được Chúa trao bình an và quyền thực thi lòng thương xót tha thứ, Tôma đã không thể tin. Chỉ sau khi ông quay trở về với anh em, cùng hiệp thông trọn vẹn với Simon và các tông đồ, ông mới có thể đón nhận được mầu nhiệm Phục sinh. Chỉ khi sống trong sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội, Tôma mới có thể cảm nhận được lòng thương xót của Chúa, được đụng chạm đến vết yêu thương của Ngài và đi đến xác tín vào Ngài.
Hôm nay cử hành lòng Chúa thương xót, chúng ta cùng cảm nhận và tuyên xưng rằng, mỗi chúng ta đang được Chúa xót thương. Chúa xót thương và chăm sóc cho mỗi người theo từng hoàn cảnh của họ và cho mỗi người được đụng chạm đến tình thương của Chúa. Tuy nhiên, có thể vì chúng ta đã không gắn bó đủ với Giáo Hội, vì đã đánh mất tình hiệp thông với anh em, nên chúng ta chưa nhận ra lòng xót thương của Thiên Chúa. Qua các biến cố xảy ra cho mỗi người, mỗi gia đình, Chúa cũng cho chúng ta được đặt ngón tay vào lỗ đinh, xỏ bàn tay vào cạnh sườn của Chúa, nhưng chúng ta vẫn nghi ngờ sự hiện diện sống động của Chúa trong cuộc đời của mình.
Qua ơn tha thứ Chúa trao cho Giáo Hội, Chúa thể hiện lòng xót thương, sự kiên nhẫn chờ đợi của Ngài. Ngài luôn cho chúng ta có cơ hội để chúng ta quay về với lòng thương xót tha thứ của Chúa. Đừng bao giờ hồ nghi về sự tha thứ của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đừng bao giờ giới hạn lòng thương xót qủang đại của Thiên Chúa, vì lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô bờ, không bao giờ bị giới hạn và không bao giờ cạn nguồn. Bí tích Giải tội là nơi Thiên Chúa mượn thánh vụ và môi miệng của các thừa tác viên của Giáo Hội để nói lời yêu thương, thông cảm, tha thứ của Chúa. Vì thế, đừng bao giờ ngại ngùng hoặc từ chối đến với Bí Tích Xót Thương này.
Xin Chúa cho chúng ta luôn khiêm tốn mở trái tim để đón nhận lòng Chúa xót thương và biến chúng ta thành thừa tác viên lòng thương xót của Chúa cho anh chị em chung quanh. Amen.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
SUY NIỆM 10: LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA TỒN TẠI ĐẾN MUÔN ĐỜI
Nhân dịp phong thánh cho nữ tu Maria Faustina Kowalska, ngày 30/4 năm 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đặt tên cho Chúa nhật tiếp liền sau Đại Lễ Phục Sinh là Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, kính nhớ việc Chúa Kitô tỏ cho thánh Tôma thấy cạnh sườn, nơi trào ra nước và máu, suối nguồn ân sủng. Truyền thống Giáo hội đã coi đây như là nguồn gốc của bí tích hòa giải, nơi mà con người cảm nhận được sự tha thứ do lòng thương xót Chúa.
Cử chỉ trao ban bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: ” Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con“. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.
Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay đầy những thương tích về thể lý, tâm lý và luân lý cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa!
Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, “hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước“. Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3, 5; 4, 14).
Lời kinh chúng ta vẫn đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Ðấng cứu độ duy nhất của chúng ta! Những tia sáng của lòng từ bi Chúa mang lại niềm hy vọng cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi. Chúa Giêsu Kitô là Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhập thể. Vậy, chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Ðấng luôn chờ đợi và yêu thương chúng ta, đừng bao giờ đánh mất sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Ðấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Cả khi chúng ta xa rời, Thiên Chúa vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giang tay ra ôm ấp chúng ta vào lòng, nếu chúng ta trở về với Chúa.
Năm Thánh Lòng Thương Xót chúng ta đang sống, theo Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Dung mạo của Thiên Chúa là dung mạo của một người Cha đầy lòng thương xót, đầy nhẫn nại với chúng ta. Người thấu hiểu chúng ta, chờ đợi chúng ta và luôn tha thứ cho chúng ta mà không bao giờ mệt mỏi, nếu chúng ta chạy đến với Người với tâm hồn sám hối… Lòng thương xót sẽ biến đổi thế giới. Một chút lòng thương xót thôi cũng làm cho thế giới bớt lạnh lẽo và thêm công chính” (Kinh Truyền Tin, 17-03-2013).
Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Để sống tốt Mùa Chay Năm Thánh, đặc biệt cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa và thực thi lòng thương xót đối với tha nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta xóa bỏ sự thờ ơ, ngài viết: “Chúng ta đừng sa vào thái độ thờ ơ lãnh đạm … đừng rơi vào trong thói quen đánh mất cảm xúc…” (x.Misericordiae Vultus số 15).
Ngài xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngày 18-10-2014).
Lạy Mẹ maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp chúng con duy trì lòng tin vào Con Mẹ. Lạy thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thánh nữ Faustina, xin trợ giúp chúng con, để chúng con được cùng với các thánh hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, bây giờ và mãi mãi. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH-C
KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Cv5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gioan
19 Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !”
20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
21 Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.”
22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.
23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến.
25 Các môn đệ khác nói với ông : “Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp : “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”
26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em.”
27 Rồi Người bảo ông Tô-ma : “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”
28 Ông Tô-ma thưa Người : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”
29 Đức Giê-su bảo : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !”
30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này.
31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.'
SUY NIỆM 1: CỦNG CỐ NIỀM TIN PHỤC SINH
Lời Chúa: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Phục sinh hôm nay cho chúng thấy, sự xác tín niềm tin của Tôma sau khi gặp Đấng Phục sinh, nói lên nỗi niềm của Đấng giàu lòng thương xót không chỉ dừng lại nơi các tội nhân, mà ngay cả những kẻ yếu kém lòng tin:
Hiện ra Chúa trách Tô-ma,
Đồng thời chúc phúc cho ta tin Ngài.
Niềm tin son sắt chẳng phai,
Chúa đã sống lại không ai còn ngờ.
Cho dù thử thách giăng tơ,
Vượt qua tất cả tôn thờ Chúa thôi.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, xót thương và ban thêm đức tin cho chúng ta, để trong mọi biến cố của cuộc đời, chúng ta vẫn vững tin và tín thác vào Chúa. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đến đem ban bình an và xua đi những ưu phiền sợ hãi, để củng cố niềm tin cho chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa chúc phúc cho chúng con khi xác tín niềm tin vào Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Chúa Kitô Phục sinh không phải là sự kiện hiển nhiên có thể được chấp nhận dễ dàng. Ngay tâm trạng hoài nghi của các Tông đồ, nhất là của Tôma. Những ám ảnh về cuộc thương khó và khổ nạn của Chúa Kitô vẫn còn in đậm trong tâm trí của các Tông đồ. Ám ảnh này làm các Tông đồ chán nản và sợ sệt, nhưng Thiên Chúa đã kiên nhẫn giúp họ dần dần tiến sâu vào mầu nhiệm Phục sinh khiến họ phải reo ca lên: Chúa đã sống lại thật rồi. Alleluia!
Thưa anh chị em, Chúa đã sống lại thật rồi. Alleluia! Niềm vui này khởi đi từ các Tông đồ, “các ông vui mừng vì xem thấy Chúa”, và cũng là niềm vui cho toàn thể nhân loại. Vui vì nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta được thông phần vào đời sống mới, với tư cách là con cái Thiên Chúa, được đồng thừa tự với Chúa Kitô. Nếu sự chết là nỗi sợ hãi nhất của con người thì sự Phục sinh là niềm hy vọng lớn nhất cho kiếp người chúng ta. Sự nghi ngờ của các Tông đồ, lòng cứng tin của Tôma giờ đây đã trở nên bằng chứng đầy thuyết phục đối với chúng ta, và chúng ta vinh dự được lãnh nhận niền tin vào Chúa Kitô Phục sinh không phải bằng giác quan nhưng nhờ ân sủng “phúc cho ai không thấy mà tin”. Nhờ tin vào Chúa Kitô Phục sinh, các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đã quây quần bên nhau hợp nhất cầu nguyện, đồng tâm nhất trí với nhau. Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng, lời nói mà được thể hiện trong việc chia sẻ của cải vật chất, sẵn sàng góp công góp của, coi mọi sự làm của chung. Các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đã làm chứng cho nhau bằng chính đời sống đức tin mạnh mẽ, đời sống cầu nguyện sống động và đời sống bác ái chân thành. Chính cuộc sống yêu thương hiệp nhất về tinh thần và vật chất này sẽ trở thành lời mời gọi mọi người đón nhận Tin mừng Chúa Kitô Phục sinh. “Cứ dầu này chúng ta nhận biết chúng ta là con cái Thiên Chúa là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thực hành các giới răn của người”. Lòng tin luôn vượt quá những gì chúng ta có thể chứng minh. Lòng tin vào Chúa Kitô Phục sinh mời gọi chúng ta phải dấn thân tin tưởng và hoán cải để có thể gặp được Đấng Phục sinh vẫn đang hiện diện trong đời sống mỗi người chúng ta.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em
Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật của Lòng Thương Xót Chúa. Giáo hội kính Lòng Thương Xót của Chúa. Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sám hối vì những thiếu sót và lầm lỗi của mình để có thể từ đó cảm nghiệm sâu xa về tình yêu và Lòng Thương Xót của Người. Thánh Gioan Tông đồ đã định nghĩa, Thiên Chúa là Tình Yêu. Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì Lòng Thương Xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài đối với kẻ tội lỗi.
Chuyện kể rằng, một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ngài luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ngài đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng, Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra Lòng Thương Xót của Thiên Chúa và nhìn nhận mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu. Đồng thời, nhìn lại thái độ của mình khi đối xử với những người tội lỗi, những người xúc phạm đến mình để từ đó, tỏ lòng xót thương đối với anh chị em mình. Nguyện xin Chúa Kitô là Đấng Phục sinh vinh hiển, Đấng giàu Lòng Thương Xót, xin xót thương và ban ơn bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
SUY NIỆM 2: BÀI HỌC TỪ TÔMA
Hành trình đức tin của Thánh Tôma được nhắc đến trong bài Tin mừng hôm nay, để lại cho chúng ta một kinh nghiệm xương máu và một phong cách sống đáng để cho chúng học hỏi.
Kinh nghiệm ấy được rút ra từ chính sai lầm của Thánh Tôma. Tin mừng cho biết, khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ trong nhà tiệc ly, Tôma vắng mặt. Ông đã tự tách mình ra khỏi anh em – ra khỏi cộng đoàn các tông đồ.
Kết quả là gì? Tôma yếu lòng tin! Ông cứng lòng đến nỗi thử thách cả Thiên Chúa: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25).
Cộng đoàn thân mến, Giáo Hội đang rất lo ngại và trăn trở cho thực trạng đức tin của chúng ta hôm nay, đặc biệt là nơi những người trẻ, bởi sự tụt dốc nhanh lẹ của nó. Và một trong những lý do đó là: nhiều người trẻ Công giáo ngày nay đang tách đời sống đức tin của mình ra khỏi các nhịp sống đạo đức của cộng đoàn giáo xứ. Họ giữ đạo theo quan điểm cá nhân, chứ không theo hướng dẫn của Giáo Hội; không còn coi trọng các Thánh lễ thường ngày, kể cả Thánh lễ ngày Chúa nhật; xem nhẹ các việc đạo đức bình dân như việc chầu Mình Thánh Chúa, lần hạt Mân côi, giờ kinh gia đình, đọc kinh tối sáng…
Tách mình ra khỏi đời sống đạo đức của cộng đoàn đã từng là sai lầm của Thánh Tôma, và đang là sai lầm của nhiều tín hữu hôm nay, và đó phải là kinh nghiệm xương máu cho chúng ta.
Nếu như Tôma đã củng cố lại được đức tin của mình, khi ông hòa nhập lại nhịp sống với cộng đoàn các tông đồ, thì đức tin của chúng ta hôm nay chỉ được gìn giữ, bảo vệ và lớn lên khi mỗi người biết trân trọng và gắn bó đời mình với nhịp sống đạo của giáo xứ. Thiết nghĩ đó là điều mà mỗi người cần suy nghĩ lại.
Bên cạnh đó, cá tính của Thánh Tôma cũng đáng để chúng ta học hỏi.
Đối với Tôma, việc tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh phải là một niềm tin kiên vững, chứ không là một sự mê tín. Do đó, ông quyết định không nghe theo những lời nói suông và những lời đồn đại không có cơ sở. Tôma đã thẳng thẳn nói lên quan điểm và suy nghĩ của riêng mình. Ông muốn chính ông phải là người được đụng chạm đến Đấng Phục Sinh thì ông mới tin.
Tuy Thánh Tôma là một con người rất cá tính, thẳng thắng và rõ ràng, nhưng một khi khám phá ra được chân lý, khám phá ra được những điều chân thiện mỹ, một khi nhận ra được cái gì đẹp ý Chúa, cái gì là tốt, cái gì hoàn hảo; Tôma sẵn sàng để cho mình bị khuất phục.
Ông không vì cái sĩ, cái nhục mà từ chối cái hay, cái đẹp, nhưng đã chân thành đón nhận và sẵn sàng tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Kitô đã chết và nay đã sống lại.
Các bạn trẻ đang tham dự thánh lễ hôm nay rất thân mến, tuổi trẻ là khoảng thời gian đầy hứa hẹn. Trong đó hàm chứa cả những hoài bảo ước mơ, bao gồm cả những cá tính, bản lĩnh và lập trường sống của mỗi người. Chúng ta có quyền lý luận để bảo vệ cho những suy nghĩ và chọn lựa của riêng mình.
Tuy nhiên, người có bản lĩnh là người dám từ bỏ những quan điểm sống của bản thân khi thấy nó không còn phù hợp, sẵn sàng đón nhận những điều hay điều đẹp từ những người xung quanh, dám bỏ điều chưa tốt để chọn làm điều tốt, thậm chí là dám bỏ cả điều tốt để chọn điều tốt hơn.
Tôma tuy cứng lòng tin nhưng lại được người ta ngưỡng mộ là vì ông tôn trọng cái đúng, ông trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.
Chúng ta được mời gọi hãy tiếp tục phát huy những năng lực của người trẻ và vươn mình đến tương lai, nhưng đừng quên dừng lại nơi những điều hay điều đẹp và khiêm tốn đón nhận nó, đừng quên lĩnh hội những chân lý sống có ích cho đời mình. Những điều hữu ích đó có thể đến từ lời dạy của Thiên Chúa và Giáo Hội; có thể đến từ cha mẹ và những người khôn ngoan; và cũng có thể đến từ những bạn bè cùng trang lứa.
Tóm lại, qua hình ảnh của Thánh Tôma, lời Chúa hôm nay nhắn nhủ với chúng ta hai điều. Thứ nhất là hãy gắn bó đời mình với nhịp sống đạo của cộng đoàn một cách thật tử tế, để bảo vệ đức tin của mình. Thứ hai là hãy trân trọng và đón nhận cái hay cái đẹp mà cuộc sống và những người xung quanh mang lại, để hoàn thiện bản thân.
Cầu chúc anh chị em, đặc biệt là các bạn trẻ gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống, cả đời lẫn đạo. Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM 3: MỞ RA NHỮNG CÁNH CỬA ĐÓNG KÍN
Sau ngày thứ sáu đau thương, các tông đồ đang ở trong tâm trạng sợ hãi, hoang mang và tuyệt vọng. Tin mừng diễn tả: “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kin, vì sợ người Do thái”, đó là nỗi sợ bên ngoài, sọ bị bách hại, sợ những ánh nhìn của người khác. Nhưng, có người còn cho rằng, các ông sợ “chính mình”, không dám đối diện với chính mình, đối diện với lựa chọn quay lưng lại với Chúa của mình. Các ông đóng cửa lòng mình lại. và điều gì đã xảy ra? Chúa đến với các môn đệ, ban cho họ “bình an” và cho họ xem “tay và cạnh sườn”, tức là những vết thương đã chịu nơi cuộc khổ nạn. Chúa không trách các môn đệ vì đã bỏ Chúa, nhưng đã trao lại cho các môn đệ cái kinh nghiệm của tình yêu nơi những vết thương ấy cũng như trao ban lại “sự sống”, sức sống mới cho các môn đệ qua việc “thổi hơi”. Nhờ đó, các ông được bình an.
Hơn nữa, bài tin mừng còn diễn tả cho chúng ta về Tôma. Khi các môn đệ nói với ông: “chúng tôi đã thấy Chúa”, ông đã không tin: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn người, tôi chẳng có tin”. Người ta thường nói ông là người cứng lòng tin, nhưng không phải vậy, mà ông là người mất niềm tin, mất niềm tin vào chính mình, mất niềm tin vào các môn đệ, vì chính ông và những người môn đệ đã phản bội và trốn chạy khỏi Chúa trong cuộc khổ nạn. Ông nghĩ rằng, Chúa không thể đến với những người đã phản bội, đã chối mình. Do đó, chúng ta cũng nhận ra những căng thẳng trong căn phòng đóng kín ấy suốt tám ngày. Các môn đệ đã bất lực trong việc dẫn Tôma trở về lại với cộng đoàn, để hiệp thông với cộng đoàn trong niềm tin Chúa sống lại. Chúa đã hiện ra một lần nữa với Tôma trong cảm nghiệm mất niềm tin của ông và đưa ông tin trở lại. ông đã vượt qua được nỗi sợ về sự ám ảnh của lòng tin và ông tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, Lạy thiên Chúa của con”.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ
Thế giới hôm nay chứng kiến những căn phòng đóng kín. Có những người chôn mình trong quá khứ vì những tổn thương do lời nói, hành động của ai đó; hay vì những đau khổ đã gặp phải trong cuộc đời. có những người dìm mình trong những “an toàn giả tạo” như tiền tài, danh vọng hay quyền lực, để rồi tìm kiếm nó đến nỗi quên cả tiếng lương tâm mà đánh mất chính mình. Có khi chúng ta cũng đang ở trong căn phòng đóng kín của chính mình. Chúng ta không dám đối diện với chính mình, cũng như không dám mở lòng mình ra với Thiên Chúa và với anh chị em của mình. Vì những nỗi đau, vì những tổn thường mà người khác gây ra cho mình, chúng ta đóng lòng mình lại với họ.
Chúa Nhật hôm nay là Chúa Nhật kính lòng Thương xót Chúa. Cái hay mà Tin mừng hôm nay diễn tả cho chúng ta cũng diễn tả về lòng thương xót, đó là Chúa bất chấp các môn đệ có cứng lòng, có đóng cửa lòng mình lại, Chúa vẫn đến với các ông. Chúa đã hiện ra trong căn phòng đóng kín để mở toang cánh cửa tâm hồn của các ông. Chúa Phục sinh vẫn đang hiện diện và ban bình an chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta hãy nhìn xem “bàn tay và cạnh sườn” bị đâm thâu vì yêu thương với lời nói dịu dàng: “Đừng cứng lòng nhưng hãy tin”.
Xin Chúa mở đôi mắt tâm hồn chúng ta để chúng ta nhận ra được Chúa Phục sinh đang hiện diện với chúng ta, đặc biệt là hiện diện trong những đau khổ, những tổn thương cũng như những nỗi sợ của chúng ta; giúp chúng ta bước đi trong đời sống với sự bình an của Chúa phục sinh, biết mở lòng mình ra với tha nhân trong sự cảm thông, tha thứ. lúc ấy chúng ta sẽ được như Lời Thánh Phaolô nói: “anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người”.
JB. Linh Ân
SUY NIỆM 4: THÁNH TÔMA VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Chúa nhật II phục sinh, Giáo hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.
Lòng thương xót của Chúa được biểu lộ qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao sự bình an, là Chúa cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.
- Đức tin của Tôma
Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại : khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ : Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.
Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.
Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được’. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng ‘lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi‘. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình : “Lạy Thiên Chúa của con“. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.
Thần học gia Hans Kung nói : “người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi”. Nhà thần học Paul Tillich nói : “sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh”. Còn Thomas Merton bảo: “người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin”. Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: “Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững”. Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).
2. Lòng mến của Gioan
Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma : “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.
3. Lòng Chúa Xót Thương
Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu đức tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.
Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn Dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.
Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.
Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa”. Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 5: TIN VÀO CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Trong nhóm Mười Hai Tông Đồ, có một người tên là Tôma. Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện “cứng lòng tin” của ông. Khi các Tông đồ kể cho tông đồ Tôma rằng họ đã thấy Chúa, thì ông liền tuyên bố: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Có lẽ vì lời tuyên bố này mà người ta đã đặt thánh Tôma làm “bổn mạng” của những người luôn đòi những bằng chứng hữu hình và khoa học không thể chối cãi được về Thiên Chúa, về Chúa Kitô như một điều kiện để tin vào Chúa Kitô và sự phục sinh của Người.
Tông đồ Tôma, cũng gọi là Đi-đy-mô, nghĩa là “Sinh đôi”. Nhưng Tin Mừng lại không nói về người sinh đôi với Tôma, nên chúng ta có thể nói rằng, chúng ta chính là người anh-chị-em song sinh của ngài mỗi khi chúng ta do dự và hoài nghi, hoặc đòi hỏi phải có những bằng chứng cụ thể thì mới tin. Nhưng nếu chúng ta nhìn nhận mình giống thánh Tôma trong thái độ “cứng lòng tin” của ngài, thì chúng ta cũng phải đi tiếp con đường đức tin như thánh nhân vậy. Thánh Tôma không ở mãi trong thái độ cứng lòng tin, đứng trước Đức Kitô Phục Sinh ngài đã hoàn toàn suy phục chân lý đức tin khi tuyên xưng Người là Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Đức tin của chúng ta cũng cần phải đạt đến thái độ suy phục này, để rồi trước Chúa, chúng ta tuyên xưng Người là “Thiên Chúa của con”.
Câu chuyện Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ và cho thánh Tôma nhắc nhở chúng ta về hai chiều kích quan trọng của đức tin, đó là chiều kích cá nhân và tập thể. Trước hết, đức tin của mỗi chúng ta là kết quả của một quyết định cá nhân, và quyết định này luôn phải được lặp đi lặp lại. Nhưng đức tin này lại được nuôi dưỡng và lớn lên trong một tập thể, một cộng đoàn. Không ai có thể là một Kitô hữu trưởng thành mà không cần đến cộng đoàn. Đó là lý do tại sao chúng ta phải đến nhà thờ, không chỉ để thực hành niềm tin của mình, nhưng còn để sống, để chia sẻ, hiệp thông và nâng đỡ nhau trên con đường đức tin, và cùng với anh chị em mình vượt qua những hoài nghi nhằm đạt đến sự viên mãn của đức tin
Chúa Giêsu nói: “Tôma, vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”Lời này vẫn được Chúa Giêsu lặp lại với hàng triệu Kitô hữu từ hai ngàn năm nay, và với mỗi người chúng ta hôm nay. Chắc chắn không ai trong chúng ta được gặp Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt, được chạm đến Người như các Tông đồ, nhưng chúng ta vẫn tin Người hiện hữu và hằng sống nhờ vào lời chứng của các Tông đồ được lưu truyền lại trong Giáo hội. Chúng ta không nhìn thấy Chúa, nhưng chúng ta tin rằng Người hiện diện qua các dấu chỉ như qua các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể; qua Kinh thánh bằng việc đọc và suy gẫm Lời Chúa; qua các buổi nhóm họp và cầu nguyện của các Kitô hữu, như Chúa Giêsu đã nói: “Ở đâu có hai ba người họp nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18,20) ; qua những người làm việc bác ái, những người xây dựng công lý và hòa bình,...
Tuy nhiên mấu chốt của bài Tin Mừng hôm nay không chỉ là câu chuyện về tông đồ Tôma và lời tuyên xưng của ông, nhưng còn là việc Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ vào ngày Người phục sinh. Đó là một cuộc hiện ra điển hình tổng hợp tất cả những lần hiện ra khác, gồm hai mục đích:
Mục đích thứ nhất, cuộc hiện ra này làm nảy sinh niềm tin của các môn đệ vào Chúa Giêsu, Đấng Phục sinh. Người ở đó giữa họ và ăn uống với họ. Trong bốn mươi ngày, các môn đệ tiếp xúc và trò chuyện nhiều lần với Chúa Kitô, nhờ đó đức tin của họ được cũng cố. Họ tràn ngập niềm vui và bình an. Và Người hứa sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế.
Mục đích thứ hai là, nhờ lòng tin được củng cố, cùng với lệnh truyền sai đi với năng quyền và Thánh Thần được ban cho, các tông đồ sẵn sàng và mạnh dạn ra đi, tiếp tục sứ mệnh của Thầy là loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
Chúa Giêsu sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Người ban cho họ Thánh Thần, ban quyền năng tha tội và các quyền giải thoát khỏi ác thần và sự dữ.
Ta có thể thấy rằng, vào chính ngày lễ Phục Sinh, Giáo hội đã được khai sinh vì hội đủ các yếu tố cấu thành của nó:
Thứ nhất, một cộng đoàn thường xuyên họp nhau, nhất là vào “ngày thứ nhất trong tuần” của người Do Thái, tức là Chúa nhật, ngày Chúa Kitô phục sinh; họ cử hành nghi thức “bẻ bánh”, tức là Bí tích Thánh Thể; và đây là một cộng đoàn gồm những người tin vào Chúa Giêsu, Đấng Phục sinh. Đó là một cộng đoàn “Kitô giáo”, bởi vì Chúa Kitô ở giữa cộng đoàn này.
Thứ hai, cộng đoàn này được Đấng Phục Sinh ban Thánh Thần để được sai đi và được trao quyền năng để thi hành sứ vụ.
Một cộng đoàn họp nhau nhân danh Chúa Kitô và có Chúa Thánh Thần hoạt động giữa họ, đó là hai yếu tố tối thiểu để chúng ta có thể nói, việc nhóm Mười Hai tụ họp và được lãnh nhận Thánh Thần của Đấng Phục Sinh là sự hình thành đầu tiên của Giáo hội.
Giáo hội là chính chúng ta. Khi chúng ta họp nhau cầu nguyện và cử hành thánh lễ, chúng ta làm cho Giáo hội của Chúa trở nên sống động và hữu hình. Qua Giáo hội, Thiên Chúa ban cho chúng ta Thánh Thần của Người, lương thực hằng sống, sự bình an và ân sủng của Người. Nơi Giáo hội, Chúa trao cho chúng ta sứ mạng loan báo Tin Mừng và trở nên những chứng nhân Nước trời.
Ước gì mỗi chúng ta luôn ý thức vị trí cao quý của mình trong Giáo hội để luôn sống gắn bó với Giáo hội, tích cực cộng tác trong việc xây dựng Giáo hội, và làm cho niềm vui Phục sinh và Tin Mừng cứu độ được loan báo đến cho mọi người. Amen.
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
SUY NIỆM 6: CHÚA LÀ ĐẤNG GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
1- Chúa Phục Sinh, chuyện có một không hai
Câu chuyện đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm mà chúng ta đang tưởng nhớ và cử hành hôm nay là câu chuyện Đức Giêsu thành Nadarét chết và sống lại, chuyện thật như bịa, chuyện có một không hai trong lịch sử nhân loại, chuyện quá mới mẻ gây ngạc nhiên đến mức không thể tưởng tượng, không thể tin nổi!
Quả thế, sau khi thấy thầy Giêsu bị treo trên cây thập giá và chết một cách nhục nhã đau đớn, các Tông Đồ trong đó có Tôma thất vọng và bỏ cuộc. Niềm tin của họ bị khủng hoảng. Chỉ có con đường duy nhất là “về vườn” để kiếm sống. Việc Chúa sống lại là chuyện “động trời,” không ai dám nghĩ tới.
Tuy nhiên, chính Đấng Phục Sinh đã hiện ra với các phụ nữ, với hai môn đệ trên đường Emmaus, và với nhiều Tông Đồ khác khi họ họp mặt. Trong những lần đó, Tôma (biệt danh là Điđimô) không có mặt. Họ kể lại: “Chúng tôi đã được thấy Chúa” (Ga 20,22). Nhưng Tôma vẫn không tin nếu không trực tiếp nhìn thấy các dấu đinh của Người (x. Ga 20,24). Tám ngày sau, họ lại họp nhau và có Tôma ở đó. Chúa hiện ra và tỏ cho ông thấy các dấu đinh. Tôma mới tin và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,29).
2- Ý nghĩa của biến cố phục sinh
Qua biến cố phục sinh, chúng ta rút ra những ý nghĩa sau đây:
1) Việc Chúa Giêsu chết bày tỏ tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa. Còn việc Chúa sống lại minh chứng quyền năng cứu độ của Người. Thiên Chúa chiến thắng sự dữ và thần chết. Nhờ sự vâng phục, Đức Kitô được Thiên Chúa Cha siêu thăng, tặng ban danh hiệu là “Đức Chúa và là Đấng cứu độ duy nhất và phổ quát” của nhân loại. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ cho chúng ta (x. Cv 4,12).
Vì thế, trong Thông Điệp Dives in Misericordia, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Chúa Giêsu Kitô bị hành hạ và chịu đau khổ vì xót thương chúng ta, thật quá mọi mức độ có thể tưởng nghĩ được. Cả sau biến cố phục sinh, thập giá không ngừng nói về Thiên Chúa là Cha, Ðấng tuyệt đối trung thành với tình thương muôn đời của Người đối với con nguời. Tin vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa” (số 7).
2) Đức Kitô Phục Sinh củng cố niềm tin cho các môn đệ và cho chúng ta. Như thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả Đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14). Nếu Chúa không sống lại, sẽ không có Giáo Hội và không có cộng đoàn chúng ta như hôm nay.
3) Đức Kitô Phục Sinh chính là sứ giả của Lòng Thương Xót Chúa. Người mang đến cho các môn đệ và cho chúng ta những ân huệ mới: đó là sự bình an, Chúa Thánh Thần và ơn tha thứ.
Vì thế, mỗi lần Chúa hiện ra đều nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,21). Có Chúa Phục Sinh là có sự bình an. Có bình an là có tất cả. Sự bình an này quý giá, giúp chúng ta vững vàng trước mọi gian nan thử thách.
Đức Giêsu thổi hơi và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúng ta nhớ lại, khi sáng tạo con người, Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam, nhờ đó, ông có sự sống. Cũng vậy, trong những lần hiện ra, Đấng Phục Sinh thổi hơi và ban Thánh Thần cho các Tông Đồ, để họ có sự sống mới. Đây quả là cuộc tạo dựng mới. Chúa Thánh Thần là Quà Tặng của Đấng Phục Sinh. Việc Chúa “thổi hơi và ban Thánh Thần” là ban cho Giáo Hội sự sống mới và sức mạnh mới.
Đấng Phục Sinh còn sai Giáo Hội ra đi với quyền tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha” (Ga 20,23). Tha thứ là dấu chỉ rõ ràng về lòng thương xót vô bờ bến của Chúa, được thể hiện qua bí tích Hòa Giải.
3- Sứ giả lòng Thương Xót Chúa
Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa. Một ngày nọ, Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Faustina Kowalska, sứ giả của Lòng Thương Xót, rằng: “Nhân loại sẽ không có hòa bình cho đến khi biết tin vào Lòng Thương Xót Chúa” (Nhật Ký, 300). Lòng Thương Xót là tặng phẩm mà Giáo Hội nhận từ Đức Kitô Phục Sinh và trao ban cho nhân loại ngay khi khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba. Mầu nhiệm của Lòng Thương Xót đã thay đổi tận gốc số phận của nhân loại.
Thánh nữ Faustina thấy phát ra hai tia sáng từ Thánh Tâm Chúa chiếu tỏa thế gian một cách dịu dàng. Theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ: “Hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước.” Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, là bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3,5; 4,14). Những tia sáng từ lòng nhân từ Chúa ban là niềm hy vọng đặc biệt cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi.
Mỗi Chúa Nhật đều là Chúa Nhật Lòng Thương Xót. Mỗi thánh lễ là nguồn mạch của Lòng Thương Xót. Bởi vì, thánh lễ tái hiện cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô để đền bù tội lỗi của chúng ta và toàn thế giới. Chúng ta được mời gọi hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để đón nhận Lòng Thương Xót Chúa. Hãy đến với bí tích Hòa Giải để lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nếu có ai cảm thấy mình quá yếu đuối và tội lỗi, thì hãy nhớ đến Lòng Thương Xót Chúa bao giờ cũng lớn lao hơn tội lỗi chúng ta. Chỉ có lòng thương xót Chúa ban cho chúng ta hy vọng chỗi dậy và tiến bước. Chúng ta hãy tín thác vào Chúa, đừng bao giờ sợ hãi, đừng bao giờ thất vọng!
Lạy Chúa, nhờ sự chết và sự sống lại, Chúa đã mạc khải Lòng Thương Xót Chúa cho loài người. Chúng con tín thác vào Chúa: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới. Amen!
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
SUY NIỆM 7: LẠY CHÚA TÔI
Khi nói về thánh Tôma, thường chúng ta hay gán cho ngài là kẻ cứng lòng tin. Chính vì thế, trong đời thường, gặp một ai còn xa rời đức tin, hay lạnh nhạt khi được nói về đức tin, hay tỏ ra ngoan cố trong việc lười biếng, bỏ bê việc đạo hạnh, người ta thường ví von so sánh họ: “Cứng lòng như Tôma”.
Thật ra, nơi đức tin và lòng mến của thánh Tôma với Chúa, nếu chúng ta chịu khó đào sâu, sẽ thấy đó là cả một bài học vô giá giúp ta sống đức tin của mình.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lổ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin”. Qua câu nói, ta thấy thánh Tôma là người thực tiễn. Thái độ thực tiễn của thánh Tôma là câu trả lời khả dĩ cho đức tin vào Chúa Phục Sinh của thời đại thực nghiệm của chúng ta hôm nay.
Nhờ thánh nhân lên tiếng, ta mới thấy rõ hơn thế nào là sự trăn trở, sự giằng vặt của đức tin mà nỗ lực cá nhân của chính ta có thể đáp lại mạc khải của Chúa.
Cũng chính nhờ thánh nhân, Hội Thánh có một bằng chứng xác thực cho tất cả những ai nghi ngờ về đức tin Phục Sinh của người Công Giáo: Bởi Chúa Giêsu đã đáp ứng đòi hỏi của thánh Tôma: Tám ngày sau, Chúa đã hiện ra với tất cả mọi bằng chứng rõ ràng nhất mà thánh Tôma đã từng đòi hỏi.
Chúa đã đánh đổ thách thức của thánh Tôma, qua đó, Chúa đánh đổ mọi nghi ngờ của con người thực nghiệm thời nay: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin”.
Trước bằng chứng hùng hồn về tất cả nơi Chúa Phục Sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu thừa nhận. Thánh nhân tuyên xưng đức tin bằng một lời tuyên xưng long trọng, đầy tư cách cá nhân của chính mình với Chúa Phục Sinh của mình: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Là Kitô hữu, chúng ta đã tin chắc chắn Chúa đã phục sinh. Vậy chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa: sống một cách yêu thương, hòa dịu với mọi người. Ta dẹp bỏ thói ích kỷ, tính tranh giành, vụ lợi.
Ta cần luôn chú tâm xả thân phục vụ những lợi ích chung như thực hành các công tác trong giáo xứ, các công trình phúc lợi của xã hội, thực hành đức bác ái mọi nơi, mọi lúc…
Đặc biệt, qua tất cả công việc, trong hết mọi ngày đời ta, ta luôn nghĩ đến việc truyền giáo, để làm cho mọi người tin Chúa, thờ phượng Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin hãy mở cho chúng con đôi mắt, để chúng con nhận ra Chúa qua tất cả mọi biến cố của đời sống.
Xin làm cho nhiều người còn chưa biết Chúa, được nhận biết và tôn thờ Chúa, nhờ đó, Nước Chúa phát triển khắp nơi trên thế giới này.
Xin cho những ai đã thờ phượng Chúa, nhưng sai lạc trong đức tin, biết mau chóng trở về, nhìn nhận một mình Chúa duy nhất là Đấng có sự sống đời đời mà thôi. Amen.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
SUY NIỆM 8: NIỀM TIN CỦA TÔI
Niềm tin không chỉ là sự ưng thuận cách máy móc. Niềm tin còn đòi hỏi những phản ứng tích cực như Toma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25)
Tự khẳng định là một trong những đặc điểm để xác định chính mình giữa mọi người. Tự khẳng định bằng một con đường ngay thẳng, chính trực, ý thức và tự do. Chúa muốn như thế đối với mỗi người chúng ta, chịu trách nhiệm về niềm tin và sống cuộc sống của mình chứ không ai khác. Niềm tin không chỉ là do ai đặt để cho, mà còn là niềm tin “tôi tin” trong đức tin “chúng tôi tin”.
Trong đời sống đạo, cha mẹ, ông bà tôi, anh chị em tôi đều dự lễ ngày Chúa Nhật, tôi cũng đi nhưng đi cho có. Tôi không ý thức điều ấy là cần thiết cho tôi nên tôi chỉ thấy điều phải làm. Trong đời sống, nếu tôi phải làm, tôi sẽ chỉ chiếu lệ, cho xong, tôi không biết mình là ai vì chẳng bao giờ biết tôi là ai và điều gì cần cho tôi. Tôi sống như mọi người quanh tôi sống, họ đứng ngoài dự lễ, tôi cũng làm như thế, nhiều người cho rằng chẳng tội lỗi gì tôi cũng sống theo vậy. Cuối cùng tôi chẳng có trách nhiệm gì với cuộc sống của tôi, cứ để nó trôi theo những cảm xúc của tôi. Thấy được là được, thấy tốt là tốt.
Tự tìm kiếm niềm tin là một hành vi tích cực, để biết tại sao tôi tin, niềm tin ấy cho tôi những gì? Toma đặt câu hỏi của mình về niềm tin là bộc lộ một cá tính mạnh. Ông dám tuyên bố với mọi người, niềm tin cần được kiểm chứng. Mặc dù Tôma cũng đã sống với Chúa bao năm, chứng kiến sự chết của Chúa, vẫn nghe Chúa đã sống lại. Tất cả những điều đó vẫn là điều “chúng tôi tin”. Vấn đề “tôi tin” đòi hỏi với chính tôi. Tôi sẽ đến tham dự với anh chị em tôi trong cử hành Thánh Lễ một cách nghiêm túc, giống như Tôma đến dự buổi họp mặt với các tông đồ tám ngày sau đó. Tôi tham dự với một cách khiêm nhường cùng với anh chị em của tôi trong cầu nguyện, xin ban cho tôi thêm niềm tin.
Niềm tin của tôi là một niềm tin sống động, không chỉ một lần tin mà là mỗi ngày sống xác tín niềm tin. Tôi hạnh phúc sống trong niềm tin của tôi, đòi hỏi tôi nỗ lực tìm biết và sống niềm tin của mình, chứ không do người khác nhận định. Chính tôi tìm thấy niềm tin của tôi trong điều chúng tôi tin là cần thiết. Chúa sẵn sàng cho tôi thấy niềm tin của tôi, như đã sẵn sàng cho Tôma thọc ngón tay vào lỗ đinh, để củng cố xác tín của tôi.
Niềm tin tôi sống một cách sâu xa có thẻ diễn tả theo cách của Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Một niềm tin sống dồi dào, đạt tới đỉnh cao hạnh phúc. Đó là niềm tin mà chúng ta hằng ngày xin Chúa ban cho để vươn tới.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
SUY NIỆM 9: LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA BIẾN ĐỔI CON NGƯỜI
Người ta thấy rằng, nhà tù chỉ có thể lấy đi tự do của một tội phạm, nhưng chưa chắc có thể giáo dục và thay đổi được cuộc đời con người. Trong nền giáo dục hiện đại, người ta cũng thấy rằng, hình phạt có thể ngăn chặn một số hành vi sai lỗi, nhưng chỉ có tình thương mới có thể cảm hóa và biến đổi được trái tim con người. Lịch sử cho thấy, Thiên Chúa đã dùng sư phạm của tình yêu để giáo dục và giúp con người biến đổi.
Chúa nhật thứ hai Phục sinh được Đức Thánh Giáo Hoàng JP II chọn là Chúa Nhật của Lòng Thương Xót Chúa, vì các bài đọc trong thánh lễ đã để lại vô số dấu chỉ tình thương của Chúa Phục Sinh dành cho các tông đồ và cho chúng ta. Tin Mừng Gioan thuật lại hai cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh. Cả hai cuộc hiện ra này, Chúa Phục Sinh đã thể hiện tình thương đặc biệt của Ngài đối với các tông đồ.
Lần thứ nhật xảy ra vào buổi chiều ngày phục sinh. Lúc đó, các môn đệ của Chúa sống hoàn cảnh hết sức tội nghiệp, đáng thương. Họ như rắn mất đầu, rơi vào tình trạng mất phương hướng và lo sợ, sống khép kín trong ngôi nhà đóng cửa cài then, không giao du, không tiếp xúc với ai. Tình trạng sống buồn bã ấy không khác gì một cuộc sống tuy còn thở nhưng tâm hồn đã chết vì suy sụp sau cuộc tử nạn của Thầy. Chúa Phục Sinh biết hoàn cảnh của các học trò mình. Vì thế, ngay chiều ngày thứ nhất, Ngài đã hiện ra, đứng giữa các ông. Sự hiện diện này như sự hiện diện của một người cha trước mặt con cái, sự hiện diện có sức an ủi và gia tăng niềm vui, nghị lực sống cho các tông đồ.
Món qùa đầu tiên Chúa Phục Sinh trao tặng cho các tông đồ là lời : Bình an cho các con. Đây không phải là một lời cầu chúc như chúng ta vẫn chúc nhau, nhưng đây thực sự là một tình trạng, một ơn được ban cho các tông đồ để biến đổi tâm hồn và cuộc đời các ông. Chúa Giêsu không hề khiển trách các ông về sự nhát đảm, bỏ trốn hoặc chối Chúa trong cuộc khổ nạn. Ngài đã quên hết mọi đau khổ các ông đã gây ra cho Ngài. Lòng thương xót của Chúa khiến Chúa Phục Sinh không kìm hãm được tình yêu. Ngài cho các tông đồ xem tay và cạnh sườn Người, Người muốn cho các ông tận mắt được nhìn thấy dấu vết yêu thương để có thể cảm nhận được tình yêu tột cùng của Ngài.
Món quà tiếp theo là món quà sự sống mới của Chúa Phục Sinh, đó là món quà Thánh Thần, được trao cho các tông đồ. Ngài thổi hơi và phán : Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Nếu như ngày xưa Thiên Chúa đã thổi hơi vào nắm đất để ban cho Adam sự sống, thì hôm nay, Chúa Phục Sinh đã thổi một hơi thở mới là Thánh Thần vào tâm hồn các tông đồ. Hơi thở này là một cuộc tạo dựng mới, làm nên một thế giới mới, con người mới, sức sống mới cho nhân loại và cho vũ trụ. Từ đây, con người và vũ trụ không còn sống con người cũ nữa, nhưng sống với trái tim mới, với con người mới, con người mang sức sống Phục Sinh.
Kế đến, Chúa Phục Sinh đã thể hiện lòng thương xót, thông cảm đối với những giới hạn, yếu đuối của con người, vì thế, Ngài đã trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài để tha thứ : Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm giữ. Tha thứ là thể hiện sâu xa nhất lòng xót thương của Thiên Chúa là Cha. Đức Thánh Cha Fancis đã khẳng định : Tội lỗi không thể ngăn cản được lòng thương xót của Thiên Chúa và Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi để tha thứ cho con người.
Trao ban cho các tông đồ quyền tha thứ, Chúa Phục Sinh muốn các ông trở thành “hiện thân” của Chúa, thành cộng tác viên, người nối dài lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa cho đến tận thế. Qua các tông đồ, cái chết và sự phục sinh Chúa không dừng lại, nhưng được tiếp tục trao ban cho nhân loại bằng ơn tha thứ và chữa lành của Thiên Chúa. Như thế, tha thứ là hoa quả lớn lao nhất của cuộc phục sinh mà Chúa Giêsu để lại cho Giáo Hội.
Lần hiện ra thứ hai của Chúa Phục Sinh mang tính cụ thể hơn nữa. Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ là một tình thương chung chung, nhưng là một tình thương đụng chạm đến từng cá nhân mỗi người. Cuộc hiện ra tám ngày sau, có thể nói là cuộc hiện ra dành riêng cho Tôma, một người muốn kiểm chứng cuộc phục sinh của Chúa bằng kinh nghiệm cá nhân : Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin. Chúa Phục Sinh như muốn đáp ứng sự khao khát tìm kiếm dấu chỉ đức tin của Tôma. Vì thế, khi hiện ra, Chúa Phục Sinh đã gọi đích danh ông, cho ông có một cơ hội tiếp xúc, đụng chạm đến Đấng Phục Sinh. Ngài nói với ông : Hãy đặt ngón tay con vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay con ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.
Chúa Phục Sinh đã hết sức yêu thương và kiên nhẫn với học trò của mình. Chúa biết rằng, việc đón nhận mầu nhiệm Phục sinh không phải là điều dễ dàng. Chúa đã cho Tôma được xỏ bàn tay vào cạnh sườn của Chúa để có ông có thể đụng chạm đến trái tim thương tích của Ngài. Chạm vào vết thương của Chúa không phải là chạm vào vết đau mà Tôma được chạm vào tình thương của Chúa Phục Sinh. Một khi chạm vào tình yêu, con người được biến đổi. Khi chạm vào lòng thương xót của Chúa, giống như chạm vào một nguồn suối, từ đó mạch nguồn yêu thương của Chúa tuôn trào trên Tôma. Tôma đã đón nhận lời chứng của các tông đồ trong sự hồ nghi, thì giờ đây, với lòng thương xót của Chúa, niềm tin của ông đã đi đến một xác tín cá nhân : Lạy Chúa tôi ! Lậy Thiên Chúa của tôi.
Tin Mừng Gioan còn ghi lại lời chúc phúc của Chúa Giêsu dành cho chúng ta là thế hệ các tín hữu sau các tông đồ : Phúc cho những ai không thấy mà tin. Chúng ta vẫn đang tiếp tục được đón nhận lòng thương xót và đức tin qua các tông đồ và Giáo Hội. Chỉ khi chúng ta thực sự sống trong sự hiệp thông với các tông đồ, sống trong sự bao bọc của Giáo Hội, chúng ta mới có thể đón nhận được đức tin Chúa phục sinh và có thể dễ dàng đón nhận lòng Chúa thương xót qua Giáo Hội.
Tôma trước đây chưa thể đón nhận được mầu nhiệm Phục sinh, bởi vì ông đã tách lìa khỏi cộng đoàn các tông đồ. Vì một lý do nào đó, khi anh em vẫn tụ tập bên nhau chung quanh Simon, thì Tôma đã không hiện diện. Vì thế, khi anh em nói về việc họ đã được gặp Chúa Phục Sinh, được Chúa trao bình an và quyền thực thi lòng thương xót tha thứ, Tôma đã không thể tin. Chỉ sau khi ông quay trở về với anh em, cùng hiệp thông trọn vẹn với Simon và các tông đồ, ông mới có thể đón nhận được mầu nhiệm Phục sinh. Chỉ khi sống trong sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội, Tôma mới có thể cảm nhận được lòng thương xót của Chúa, được đụng chạm đến vết yêu thương của Ngài và đi đến xác tín vào Ngài.
Hôm nay cử hành lòng Chúa thương xót, chúng ta cùng cảm nhận và tuyên xưng rằng, mỗi chúng ta đang được Chúa xót thương. Chúa xót thương và chăm sóc cho mỗi người theo từng hoàn cảnh của họ và cho mỗi người được đụng chạm đến tình thương của Chúa. Tuy nhiên, có thể vì chúng ta đã không gắn bó đủ với Giáo Hội, vì đã đánh mất tình hiệp thông với anh em, nên chúng ta chưa nhận ra lòng xót thương của Thiên Chúa. Qua các biến cố xảy ra cho mỗi người, mỗi gia đình, Chúa cũng cho chúng ta được đặt ngón tay vào lỗ đinh, xỏ bàn tay vào cạnh sườn của Chúa, nhưng chúng ta vẫn nghi ngờ sự hiện diện sống động của Chúa trong cuộc đời của mình.
Qua ơn tha thứ Chúa trao cho Giáo Hội, Chúa thể hiện lòng xót thương, sự kiên nhẫn chờ đợi của Ngài. Ngài luôn cho chúng ta có cơ hội để chúng ta quay về với lòng thương xót tha thứ của Chúa. Đừng bao giờ hồ nghi về sự tha thứ của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đừng bao giờ giới hạn lòng thương xót qủang đại của Thiên Chúa, vì lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô bờ, không bao giờ bị giới hạn và không bao giờ cạn nguồn. Bí tích Giải tội là nơi Thiên Chúa mượn thánh vụ và môi miệng của các thừa tác viên của Giáo Hội để nói lời yêu thương, thông cảm, tha thứ của Chúa. Vì thế, đừng bao giờ ngại ngùng hoặc từ chối đến với Bí Tích Xót Thương này.
Xin Chúa cho chúng ta luôn khiêm tốn mở trái tim để đón nhận lòng Chúa xót thương và biến chúng ta thành thừa tác viên lòng thương xót của Chúa cho anh chị em chung quanh. Amen.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
SUY NIỆM 10: LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA TỒN TẠI ĐẾN MUÔN ĐỜI
Nhân dịp phong thánh cho nữ tu Maria Faustina Kowalska, ngày 30/4 năm 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đặt tên cho Chúa nhật tiếp liền sau Đại Lễ Phục Sinh là Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, kính nhớ việc Chúa Kitô tỏ cho thánh Tôma thấy cạnh sườn, nơi trào ra nước và máu, suối nguồn ân sủng. Truyền thống Giáo hội đã coi đây như là nguồn gốc của bí tích hòa giải, nơi mà con người cảm nhận được sự tha thứ do lòng thương xót Chúa.
Cử chỉ trao ban bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: ” Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con“. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.
Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay đầy những thương tích về thể lý, tâm lý và luân lý cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa!
Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, “hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước“. Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3, 5; 4, 14).
Lời kinh chúng ta vẫn đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Ðấng cứu độ duy nhất của chúng ta! Những tia sáng của lòng từ bi Chúa mang lại niềm hy vọng cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi. Chúa Giêsu Kitô là Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhập thể. Vậy, chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Ðấng luôn chờ đợi và yêu thương chúng ta, đừng bao giờ đánh mất sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Ðấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Cả khi chúng ta xa rời, Thiên Chúa vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giang tay ra ôm ấp chúng ta vào lòng, nếu chúng ta trở về với Chúa.
Năm Thánh Lòng Thương Xót chúng ta đang sống, theo Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Dung mạo của Thiên Chúa là dung mạo của một người Cha đầy lòng thương xót, đầy nhẫn nại với chúng ta. Người thấu hiểu chúng ta, chờ đợi chúng ta và luôn tha thứ cho chúng ta mà không bao giờ mệt mỏi, nếu chúng ta chạy đến với Người với tâm hồn sám hối… Lòng thương xót sẽ biến đổi thế giới. Một chút lòng thương xót thôi cũng làm cho thế giới bớt lạnh lẽo và thêm công chính” (Kinh Truyền Tin, 17-03-2013).
Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Để sống tốt Mùa Chay Năm Thánh, đặc biệt cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa và thực thi lòng thương xót đối với tha nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta xóa bỏ sự thờ ơ, ngài viết: “Chúng ta đừng sa vào thái độ thờ ơ lãnh đạm … đừng rơi vào trong thói quen đánh mất cảm xúc…” (x.Misericordiae Vultus số 15).
Ngài xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngày 18-10-2014).
Lạy Mẹ maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp chúng con duy trì lòng tin vào Con Mẹ. Lạy thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thánh nữ Faustina, xin trợ giúp chúng con, để chúng con được cùng với các thánh hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, bây giờ và mãi mãi. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ