Các bài suy niệm Chúa nhật IV Phục sinh năm B - Chúa Chiên Lành

Thứ năm - 18/04/2024 19:57
CÁC BÀI SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – NĂM B
Ga 10,11-18
  1. ĐỨC PHANXICÔ, HUẤN DỤ NGÀY 25.04.2021 – CHÚA GIÊSU BẢO VỆ, BIẾT VÀ YÊU THƯƠNG MỖI NGƯỜI.
  2. MỤC TỬ NHÂN LÀNH - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
  3. TRẬT ĐƯỜNG RẦY +TGM Giuse Vũ Văn Thiên
  4. MÙI CHÚA – MÙI CHIÊN - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
  5. SUY NIỆM - Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
  6. MỤC TỬ TỐT LÀNH HAY NGƯỜI CHĂN THUÊ - Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
  7. MỤC TỬ THẬT, MỤC TỬ GIẢ - Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu
  8. MỤC TỬ VÀ ĐÀN CHIÊN – Lm Giacôbê Tạ Chúc
  9. HY SINH MẠNG SỐNG VÌ CHIÊN - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
  10. CHÚA KITÔ MỤC TỬ TỐT LÀNHLm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
  11. MỤC TỬ - Linh ân
  12. CHÚA CHIÊN LÀNH – Br. Vncent SJ

 

 

ĐỨC PHANXICÔ, HUẤN DỤ NGÀY 25.04.2021 – CHÚA GIÊSU BẢO VỆ, BIẾT VÀ YÊU THƯƠNG MỖI NGƯỜI.

Anh chị em thân mến,
Vào Chúa nhật thứ IV Phục sinh này, được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, Tin Mừng (Ga 10:11-18) trình bày Chúa Giêsu là mục tử đích thực, Đấng bảo vệ, biết và yêu thương đàn chiên của mình.
“Người làm thuê”, người không quan tâm đến đàn chiên vì chúng không phải của anh ta, là kẻ đối lập với vị Mục Tử Nhân Lành. Anh ta làm công việc chỉ để được trả lương và không quan tâm đến việc bảo vệ đàn chiên: khi một con sói đến, anh ta bỏ chạy và bỏ rơi đàn chiên (x. câu 12-13). Thay vào đó, Chúa Giêsu, vị mục tử đích thực, luôn bảo vệ chúng ta và cứu chúng ta trong rất nhiều tình huống khó khăn, những tình huống nguy hiểm qua ánh sáng của lời Ngài và sức mạnh của sự hiện diện của Ngài mà chúng ta luôn cảm nghiệm được nếu chúng ta muốn lắng nghe mỗi ngày.
Khía cạnh thứ hai là Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, biết – khía cạnh thứ nhất: bảo vệ; thứ hai: Ngài biết chiên của mình và chiên biết Ngài (c. 14). Thật tốt đẹp và an ủi biết bao khi biết rằng Chúa Giêsu biết từng người một trong chúng ta, chúng ta không xa lạ với Ngài, rằng tên của chúng ta được Ngài biết đến! Đối với Ngài, chúng ta không phải là một “đại chúng”, một “vô số”. Chúng ta là những cá thể độc đáo, mỗi người có câu chuyện của riêng mình, Ngài biết mỗi người chúng ta với câu chuyện của riêng mình, mỗi người có giá trị riêng, vừa là thụ tạo vừa là con người được Chúa Kitô cứu chuộc. Mỗi người chúng ta có thể nói: Chúa Giêsu biết tôi! Đó là sự thật, điều này như là: Ngài biết rõ chúng ta hơn bất kỳ ai biết chúng ta. Chỉ có Ngài mới biết những gì trong lòng chúng ta, những ý định, những cảm xúc thầm kín nhất của chúng ta. Chúa Giêsu biết những ưu điểm cũng như khuyết điểm của chúng ta, và luôn sẵn sàng chăm sóc chúng ta, chữa lành những vết thương do lỗi lầm của chúng ta bằng lòng thương xót dồi dào của Ngài. Nơi Ngài, hình ảnh các vị tiên tri đã cung cấp về vị mục tử của Dân Chúa được thành toàn cách trọn vẹn: Chúa Giêsu quan tâm đến đoàn chiên của mình, Ngài tập hợp chúng lại, Ngài băng bó vết thương cho chúng, Ngài chữa lành bệnh tật cho chúng. Chúng ta có thể đọc điều này trong Sách Tiên tri Ezekiel (x. Ez 34:11-16).
Vì thế, Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành bảo vệ, biết và trên hết yêu thương đàn chiên của mình. Và đây là lý do tại sao Người hiến mạng sống vì đàn chiên (x. Ga 10,15). Tình yêu dành cho đàn chiên của Người, nghĩa là dành cho mỗi người chúng ta, dẫn đến việc Người chết trên thập giá vì đây là ý muốn của Chúa Cha - không ai bị hư mất. Tình yêu của Đức Kitô không có tính chọn lọc; tình yêu ấy ôm lấy tất cả mọi người. Chính Ngài nhắc nhở chúng ta điều này trong Tin Mừng hôm nay khi Ngài nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16). Những lời này chứng tỏ mối quan tâm phổ quát của Ngài: Ngài là mục tử của mọi người. Chúa Giêsu muốn mọi người có thể đón nhận tình yêu của Chúa Cha và gặp gỡ Thiên Chúa.
Và Giáo Hội được kêu gọi thực hiện sứ mạng này của Chúa Kitô. Ngoài những người tham gia vào cộng đoàn của chúng ta, còn có rất nhiều người, phần lớn, chỉ tham gia vào những thời điểm cụ thể hoặc không bao giờ. Nhưng điều này không có nghĩa là họ không phải là con cái Thiên Chúa: Chúa Cha phó thác mọi người cho Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, Đấng đã hiến mạng sống mình cho mọi người.
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu bảo vệ, biết và yêu thương tất cả chúng ta. Xin Mẹ Maria Rất Thánh giúp chúng ta trở thành những người đầu tiên chào đón và đi theo Vị Mục Tử Nhân Lành, vui vẻ cộng tác vào sứ mạng của Ngài.
Nguồn: WHĐ (25.04.2021)

MỤC TỬ NHÂN LÀNH - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?
4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?
 

TRẬT ĐƯỜNG RẦY +TGM Giuse Vũ Văn Thiên


Những thông tin gần đây về những đoàn tàu trật bánh gây tổn thất về nhân mạng làm cho nhiều người sợ hãi. Ngày 2/4/2021, tại Đài Loan, một đoàn tàu trật đường rầy, va vào vách núi, làm 48 người chết và 86 người bị thương nặng. Ngày 18/4/2021, tại Ai Cập, một đoàn xe lửa chở khách đã trật bánh, làm 11 người chết và 98 người bị thương. Nếu làm một bản thống kê chi tiết, thì số vụ việc tương tự sẽ còn rất nhiều. Tai nạn xảy ra do bất cẩn. Tai nạn cũng xảy ra do người lái tàu lệch hướng và gây ra sự cố “trật đường rầy”. Trong đời sống của chúng ta cũng thế, có những người bị “trật đường rầy” khi sống bất cần, không tôn trọng tiếng nói của lương tâm và không tuân theo những quy định chung nhằm bảo vệ gia đình, công ích và trật tự xã hội.
Phụng vụ Chúa nhật thứ bốn mùa Phục sinh giới thiệu với chúng ta một vị hướng dẫn chỉ đường, đó là Chúa Giêsu với danh xưng “Mục tử nhân lành”. Người hướng dẫn chúng ta đi trên con đường ngay nẻo chính. Người săn sóc chúng ta và luôn đem lại cho chúng ta những điều tốt lành. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa hứa với chúng ta: những ai tin tưởng vào Chúa, sẽ tìm được bình an và ơn cứu rỗi. Người quả quyết: ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào sự dẫn dắt đầy quyền năng và chan chứa yêu thương của Người. Tin cũng là chấp nhận đi theo con đường của Chúa Giêsu, mặc dù phải trải qua gian nan thử thách, nhưng luôn xác tín Chúa đang đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời.
Cuộc sống của chúng ta hôm nay rất cần đến sự dẫn dắt của Chúa, vì có nhiều người “trật đường rầy” trong quan niệm về Đức tin. Đối với họ, Đức tin chỉ là một khái niệm mờ nhạt và không là động lực chi phối suy nghĩ cũng như hành động. Tôn giáo hay Đức tin chỉ giống như một nếp thói quen tốt, cũng có giá trị đấy, nhưng không ăn sâu nơi tiềm thức và cuộc sống của họ. Chính vì vậy mà niềm tin của họ là một mớ tạp nham hỗn hợp. Hãy đến với Vị Mục tử nhân lành để xin Người soi sáng, giống như lời van xin của người cha có con bị quỷ ám: Xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi! (x. Md 9,14-29).
Cuộc sống có những khó khăn về sức khoẻ, tài chính, học vấn, vợ chồng con cái, nhiều khi chúng ta không biết phải làm thế nào để thoát khỏi vòng luẩn quẩn. Có những người đã chọn hình thức quyên sinh để kết liễu cuộc đời. Những người khác lại buông xuôi chán chường mọi sự. Nhiều người tìm đến rượu chè, cờ bạc đỏ đen hầu mong đổi phận. Những người khác lại dùng bạo lực hay ly tán mà nghĩ sẽ giải thoát khỏi những khó khăn. Là người có Đức tin, chúng ta hãy đến với vị Mục tử Nhân lành để xin Người dẫn dắt. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước nỗi đau chồng chất của con người. Nơi Người chúng ta tìm được sức mạnh. Sức mạnh ấy đến từ lòng bao dung tha thứ. Sức mạnh ấy cũng đến tự sự khiêm nhường nhận ra mình cũng có lỗi. Đến với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được hướng đi cho đời mình, và nhờ đó tìm lại bình an và hy vọng.
Cuộc sống là sự hoà quyện những mối tương quan đa chiều. Đối nhân xử thế luôn là những bài học khó. Khôn ngoan hài hoà làm nên những tình cảm tốt đẹp bền lâu. Ích kỷ nhỏ nhoi sớm muộn cũng bị cô lập. Chúa dạy chúng ta hãy sống thân thiện bao dung. Hãy noi gương Chúa Giêsu trong bài học rửa chân các môn đệ. Hãy nhớ rằng cuộc đời này ngắn lắm và người ta chỉ sống một lần trên đời. Vì vậy, phải làm sao để trở thành một phiên bản hạnh phúc. Cũng cần cảm nhận những niềm hạnh phúc nho nhỏ mà chúng ta vẫn có trong hiện tại, nơi gia đình, bên lối xóm, nơi cơ quan, khu phố chợ. Khi cảm nhận được những niềm hạnh phúc đơn sơ ấy, lòng ta sẽ thanh thản, cuộc sống lạc quan hơn. Mỗi khi khởi đầu một ngày mới, hãy tạ ơn Chúa vì mình còn may mắn hơn rất nhiều người đang bệnh tật và có những người mắc bệnh nan y, đang tận dụng từng giờ từng phút trong cuộc sống ngắn ngủi. Xin vị Mục tử nhân lành dẫn dắt chúng ta. Lời Thánh vịnh 22 diễn tả: Chúa dẫn ta đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối mát trong lành. Người dọn ra cho ta mâm cỗ. Tất cả những điều ấy đều nhằm diễn tả sự chăm sóc yêu thươngcủa Chúa đối với những ai tin tưởng cậy trông Người.
Cuộc sống này có khởi đầu và có kết thúc. Chẳng có ai sống mãi trên đời. Người tin Chúa xác tín rằng, sau khi họ trút hơi thở cuối cùng, họ sẽ được Chúa dẫn dắt về Quê Trời. Chúa Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Chính Người sẽ dẫn chúng ta về với Chúa Cha. Người Mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Chúa đã chết và đã sống lại. Từ sự phục sinh của Người, Chúa khẳng định với chúng ta: những ai chấp nhận chết với Chúa, sẽ được phục sinh vinh quang như Người.
Cuộc sống trần gian giống như một đoàn tàu, luôn băng băng tiến về phía trước. Đích điểm của đoàn tàu, hay là sân ga cuối cùng, chính là Thiên Chúa. Xin Đức Giêsu Mục tử dẫn dắt chúng ta, để chúng ta không bị lệch hướng, nhưng luôn thẳng tiến về Quê Trời.

MÙI CHÚA – MÙI CHIÊN - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích các Giám mục mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin Mừng.”
Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, Giám mục Giáo phận Xuân Lộc, cho biết như trên trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican trưa thứ hai, 5-3-2018 sau cuộc gặp gỡ dài hơn 2 tiếng đồng hồ giữa ĐTC và 33 GM thuộc HĐGM Việt Nam. Đức Cha cũng là người thông dịch trong cuộc gặp gỡ này.
Đức cha kể lại: Chúng tôi đã thảo luận về nhiều vấn đề, nhưng lời cuối cùng ĐTC để lại cho chúng tôi là: Hãy mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin Mừng”. Trước đó, ngài đã nói về hình ảnh vị Giám mục như người chăn chiên có mùi chiên, mùi của Thiên Chúa, đồng thời ĐTC mời gọi các Giám mục gia tăng cầu nguyện, chiêm niệm. Lời mà Đức Thánh Cha lập lại nhiều lần là sự gần gũi, gần gũi Thiên Chúa, gần dân, và đặc biệt là gần các linh mục”. (x.vi.radiovaticana.va).
“Mục tử có mùi chiên và mùi của Thiên Chúa”. Huấn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho các vị Giám mục và qua đó nhắn gởi đến các Linh mục.
Căn tính Linh mục có hai chiều kích, một hướng lên Thiên Chúa, và một hướng về nhân loại. Hướng lên Thiên Chúa, căn tính Linh mục hệ tại sự thánh thiện với “mùi Thiên Chúa”. Hướng về con người, căn tính ấy hệ tại dấn thân phục vụ với đức ái mục tử có “mùi chiên”.
Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc : “Đây là người đã sống hết tình với anh em và cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó. Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu – Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội. Khi sống sứ vụ theo gương Chúa Giêsu, các mục tử sẽ luôn có mùi chiên và mùi Chúa.
1. Sống hết tình với anh em
Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cũng cho sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ… Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng: cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết, hơn nữa còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm: “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Những năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội!
Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình. Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.
Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.
Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài: tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình.
Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3T (tình, tiền, tửu), 3Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), chỉ muốn hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa.
Vì linh mục là người của sự linh thánh, nên việc huấn luyện thiêng liêng là quan trọng nhất (Đức Thánh Cha Phanxicô đã phát biểu rằng, ngài muốn chủng sinh được đào tạo ưu tiên về mặt thiêng liêng), các mặt khác cũng quan trọng: nhân bản, vì linh mục cũng là một con người như mọi người; trí thức, vì linh mục sẽ phải giảng dạy hướng dẫn người khác; mục vụ, vì đó là “nghề” của linh mục. Có thể nói, sau bao nhiêu năm tháng được huấn luyện như thế, linh mục là người hoàn hảo, hay theo cái nhìn chung của mọi người, là một người có tài có đức, giỏi giang. Linh mục phải là người có những nhân đức đối thần (Tin-Cậy-Mến), những nhân đức đối nhân (Bác ái-Khôn ngoan-Công bằng-Can đảm-Tiết độ), những nhân đức tôn giáo (Các lời khuyên Phúc Âm, tha thứ, hiền lành, đạo đức, trung thành...), những nhân đức nhân loại hay còn gọi là đức tính của con người theo quan điểm Á Đông (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín (với tha nhân), Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Dũng (với chính mình). 
Được đào tạo kỹ lưỡng như thế, linh mục hẳn phải đạt một mức độ cao trên “đàng nhân đức” mới phải lẽ. Cho nên khi thấy các linh mục không sống đúng với những đòi hỏi của chức vụ và đời sống thì chẳng trách giáo dân bất mãn, và dễ đi đến chỗ bài bác.
Linh mục không tuyên khấn như các tu sĩ, nhưng cũng phải giữ đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, không thụ động, miễn cưỡng, nhưng như lời Đức Thánh Cha Phanxicô: “Những lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là “chứng từ vui tươi về tình yêu của Thiên Chúa”, khi chúng được cắm rễ trong lòng Chúa thương xót”. (x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).
2. Cầu nguyện nhiều cho dân chúng
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người. Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)… Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.
3. Hy sinh tính mạng vì anh em mình
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
 “Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục: “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. Đức Thánh Cha nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ Văn An: Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.
 

SUY NIỆM - Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Đoạn kinh Thánh này vạch ra nét tương phản giữa người chăn tốt và người chăn xấu, người chăn trung tín và kẻ chăn bất trung. Người chăn ở Pa-lét-tin phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về bầy chiên, nếu có chuyện gì xảy ra cho chiên người ấy phải trưng bày bằng cớ để chứng minh mình không có lỗi.
Tiên tri A-mos có nói đến việc người chăn chiên gỡ được hai giò hay một tai của con chiên khỏi hàm sư tử (3.12). Luật pháp quy định: “Nếu con vật bị thú rừng xé chết, người lãnh giữ phải đem nó ra làm chứng” (XH 22,). Ở đây muốn nói là kẻ chăn phải đem về một bằng cớ nào đó, để chứng minh rằng chiên ấy đã chết, và anh không thể ngăn chặn được cái chết ấy. Đaminh-vít kể cho Sa-un nghe về cách thế chàng chăn chiên cho cha mình, đã đánh đuổi được sư tử và gấu (x. ISm 17,34-36). Người-sai-a đề cập đến việc kẻ chăn chiên được gọi ra để đối phó với sư tử (31,4). Với người chăn, liều mạng để bảo vệ bầy chiên là điều tự nhiên.
Lắm khi họ còn phải làm nhiều hơn thế nữa để cứu chiên, ấy là phải liều bỏ mạng mình vì chiên. Việc này đặc biệt xảy ra khi có bọn trộm cướp đến phá bầy chiên, Trong quyển xứ Thánh và Kinh Thánh, Thompson viết: “Tôi rất thích thú lắng nghe họ thuật lại một cách sinh động về những trận đánh quyết liệt và tuyệt vọng với đám thú dữ đó. Rồi khi bọn trộm cướp đến, người chăn trung tín thường phải liều mạng để bảo vệ bầy chiên. Tôi được biết có nhiều trường hợp người chăn thật sự hy sinh mạng sống mình trong cuộc hciến đấu. Mùa xuân vừa rồi ở khoảng giữa Ti-bê-ri-a và Ta-bo tội nghiệp một người chăn trung tín, thay vì bỏ chạy, đã ở lại chiến đấu với ba tên cướp du mục, cho đến khi anh bị băm vành ra từng mảnh, nằm chết giữa bầy chiên mà anh bảo vệ”. Người chăn thật chẳng bao giờ ngần ngại liều mạng ngay cả hy sinh mạnh sống mình vì bầy chiên.
Nhưng mặt khác, cũng có kẻ chăn giả, bất trung. Chỗ khác nhau là: người chăn chiên vốn là kẻ được sinh ra để làm công việc này. Anh được sai đến với bầy chiên lúc vừa đủ tuổi có thể chăn chiên được, anh lớn lên trong tiếng gọi trở thành người chăn chiên, và chiên trở thành bạn chung sống với anh, anh lo nghĩ cho chiên trước khi lo nghĩ cho mình. Những kẻ chăn giả nhận việc không do tiếng gọi, mà vì muốn kiếm tiền. Anh hành nghề chỉ bởi đồng tiền lương. Cũng có thể anh phải ra đồng núichăn chiên vì thành phố quá chật chội, nóng bức. Anh ta không hề có một ý thức cao, một tinh thần trách nhiệm đối với công tác, anh chỉ là một kẻ làm thuê ăn lương.
Chó sói là một mối đe dọa cho bầy chiên. Chúa Giêsu đã bảo với các môn đệ, Ngài sai họ đi như chiên vào giữa bầy muôn sói (x. Mt 10,16). Phao lô cảnh cáo các trưởng lão tại ĐẾN-phê-xô rằng bầy sói dữ sẽ đến tấn công, không dung tha đàn chiên ()x, Cv 20,29). Nếu những con sói này đến tấn công, thì những kẻ chăn thuê sẽ chẳng còn nhớ gì ngoài mạng sống của họ và tìm cách bỏ chạy. Gia-ca-ri-a nhấn mạnh điều đó như đặc tính của kẻ chăn thuê, và bảo rằng hắn chẳng làm gì cả để tập họp những con chiên bị tan lạc lại (11,16).
Điều Chúa Giêsu muốn nói là người làm việc chỉ mong được khen thưởng sẽ nghĩ tiền bạc là trên hết, còn người làm việc vì yêu thương thì nghĩ đến những người mình muốn phục vụ hơn bất cứ điều gì khác. Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt, yêu mén chiên đến độ liều bỏ mạnh sống vì chiên, đến một ngày, Ngài đã hy sinh mạng sống Ngài cho chiên.
Trước khi kết thúc phần này, chúng ta có thể ghi nhận thêm hai điểm. Thứ nhất, Chúa Giêsu tự mô tả Ngài là người chiên tốt.
Trong tiếng Hi-lạp có hai từ nối: chữ agathos mô tả phẩm chất đạo đức của một vật nào đó; và chữ kalos cũng nói đến cái phẩm chất tốt, nhưng cũng có ý là trong cái tốt đó có cái gì thu hút hấp dẫn, khiến người hoăc vật ấy đáng yêu mến, đáng ưa chuộng. Khi Chúa Giêsu được mô tả là người chăn chiên tốt (bản Việt văn dịch là nhân lành), thì từ ngữ được dùng là kalos. Trong Chúa Giêsu có một cái gì vượt hẳn con người tháo vát thành công, con người trung tín tận tụy, trong Ngài còn có vẻ đáng yêu đáng mến nữa.
Thỉnh thoảng người ta đề cập đến một lương y, gọi thế, chẳng những người ta ngụ ý đó là bác sĩ tài ba, mà còn đến cả thái độ ưu ái, dịu hiền, tận tụy, gắn liền với con người ông, khiến ông được lòng mọi người. Câu châm ngôn cho thầy thuốc “Lương y từ mẫu” thật đáng chú ý. Trong bức tranh về Chúa Giêsu ở đây với tư cách người chăn chiên tốt, Ngài chẳng những đầy sức mạnh, quyền năng, mà còn hiền lành mà đáng kính đáng yêu nữa.
Điểm thứ hai trong hình ảnh này, bầy chiên chỉ về hội thánh của Chúa Giêsu. Bầy chiên dễ gặp hai điều nguy hiểm. Nó dễ bị muông sói và trộm cướp tấn công từ bên ngoài, và có thể bị kẻ chăn thuê làm hại từ bên trong. Thật là thảm họa cho bầy chiên khi gặp kẻ lãnh đạo xấu, những kẻ chăn xem việc kêu gọi như một thứ nghề nghiệp chứ không là cơ hội để phục vụ. Cái nguy thứ hai này tệ hại hơn nhiều, vì nếu có được một người chăn tốt, trung thành, sẽ có một công cuộc phòng thủ vững chắc đối lại tấn công từ bên ngoài vào; nhưng nếu là kẻ chăn bất trung, chăn thuê, thì những kẻ thù bên ngoài rất dễ xâm nhập và tàn phá bày chiên. Điều quan trọng nhất trong Hội Thánh là, cấp lãnh phải theo gương Chúa Giêsu là người chăn tốt.

 

MỤC TỬ TỐT LÀNH HAY NGƯỜI CHĂN THUÊ - Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ


Mục tử tốt lành
Chúa Giêsu đã tự nhận mình là mục tử tốt lành với đoàn chiên (x. Ga 10,11) để nói về tương quan của Người với nhân loại, cách riêng đối với Hội Thánh là từng người Kitô hữu chúng ta. Chúa Giêsu khẳng định Người là mục tử tốt lành biết từng người, luôn chăm sóc và tâm sự với từng con chiên một là mỗi người để giúp chúng ta không nghe theo tiếng của ma quỷ, thế gian và của những thế lực không thuộc về Thiên Chúa. Người mục tử đi trước đoàn chiên, nói lên tâm tình của Chúa Giêsu là đi trước nhân loại, bảo vệ nhận loại, không để cho nhân loại bị rơi vào tay của ma quỷ.
Kẻ làm thuê
Nếu vị “Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11), thì đương nhiên khác với những kẻ chăn thuê và giữ mướn, những kẻ trộm cướp và lợi dụng. “Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên” (Ga 10,11).
Một cách phân biệt mục tử với kẻ chăn thuê có lẽ rất thời sự chúng ta tìm thấy trong lời chú giải của Thánh Grêgôriô Cả Giáo Hoàng: “Khi thinh lặng, người lãnh đạo phải khôn ngoan; khi nói năng phải liệu sao cho hữu ích, để khỏi nói ra điều cần giữ kín, hay không làm thinh khi cần lên tiếng. Một lời nói thiếu thận trọng lôi kéo người ta vào con đường lầm lạc; cũng vậy sự thinh lặng thiếu khôn ngoan khiến người ta tiếp tục sống trong lầm lạc đang khi lẽ ra họ có thể được soi sáng. Thật thế, nhiều khi các vị lãnh đạo không biết lo xa, sợ không được lòng người đời nên ngại không dám thẳng thắn nói ra sự thật. Họ không nhiệt thành chăm sóc đoàn chiên theo lời Đấng là sự thật, cho đúng với nhiệm vụ mục tử, mà chỉ chăn dắt như người làm thuê, vì khi ẩn mình làm thinh thì chẳng khác gì họ xa chạy cao bay khi chó sói đến… Quả vậy, đối với người mục tử, làm thinh không dám nói sự thật vì sợ hãi lại chẳng phải là quay lưng chạy trốn hay sao?” (x.Trích sách Quy Luật Mục Vụ của thánh Grêgôriô Cả GH – Bài đọc 2 Kinh Sách Chúa Nhật XXVII TN).
Lời nói tiếp theo của Chúa Giêsu khiến chúng ta suy nghĩ : “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên” (Ga 10,14).
Mục tử nhân lành học nhiều hơn chơi, kẻ chăn thuê chơi nhiều hơn tự học. Để có thể “biết chiên” và “chiên biết” (Ga 10,14), người mục tử nhân lành phải không ngừng học khám phá đàn chiên của mình.
Trong khi kẻ chăn thuê có thể sẽ đổ lỗi, quy trách nhiệm, than phiền… và bỏ cuộc, còn mục tử nhân lành nhận trách nhiệm khi thất bại. Mục tử nhân lành là người có kiến thức phổ quát, biết cần phải giải quyết điều gì trước, điều gì sau. Trái lại, kẻ chăn thuê thường trầm trọng hóa vấn đề, thiếu bao quát. Vì làm thuê kiếm tiền, nên kẻ chăn thuê sẽ bỏ đàn chiên khi nơi đó không thể kiếm được nữa, hoặc họ sẽ “mọc rễ” thật chắc tại những nơi ‘béo bở”. Mục tử nhân lành thì khác, vì lo lắng cho sự “phồn vinh và giàu có” của đàn chiên, của cộng đoàn, họ khám phá và xây nền trên chính sự thực của cộng đoàn họ.
Không ai trong chúng ta muốn làm kẻ chăn thuê hay kẻ trộm cướp, thực thi sứ vụ như một dịch vụ nhằm chỉ tìm lợi ích cho bản thân, còn ai sống ai chết mặc ai. Những lời sau đây của ngôn sứ Giêrêmia và Edêkiel chất vấn và cảnh tỉnh chúng ta: “Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta thất lạc và tan tác… các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chúng” (Gr 23,1-2); “Khốn cho các mục tử chỉ biết lo cho mình!… Sữa chiên thì các ngươi uống, len của chúng thì các ngươi mặc, con nào béo tốt thì các ngươi giết, và chẳng thèm lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương các ngươi không băng bó; chiên bị lạc các ngươi không đưa về; chiên bị mất các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, khiến chúng bị tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,2-6); “Hỡi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, đây Ta chống lại các ngươi. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để các ngươi chăn dắt chiên Ta nữa…để chiên của Ta sẽ không còn làm mồi cho chúng nữa” (Ed 34,8b-10).
Ngày cầu cho ơn gọi
Khi công bố Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn Thiên triệu lần thứ 61 với Chủ đề : “Được kêu gọi Gieo Hạt giống Hy vọng và Xây dựng Hòa bình”, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đến tình huynh đệ và niềm hy vọng.
Ngài mời gọi chúng ta suy ngẫm về cuộc lữ hành Kitô giáo như một hành trình hiệp hành khởi nguồn từ niềm hy vọng, hướng tới việc khám phá tình yêu của Thiên Chúa. Lời mời gọi phổ quát của Kitô giáo đặt cuộc sống của chúng ta trên tảng đá của sự phục sinh của Chúa Kitô, nhận thức rằng mọi nỗ lực được thực hiện trong ơn gọi mà chúng ta đã ấp ủ và tìm cách thực hiện sẽ không bao giờ vô ích (x. PHANXI CÔ, Sứ điệp cầu cho ơn gọi 2024).
Nói đến ơn gọi sống đời thánh hiến, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta nghĩ đến những người thánh hiến dâng trọn cuộc sống cho Chúa trong âm thầm của kinh nguyện, cũng như trong hoạt động tông đồ; những người đã đón nhận ơn gọi làm linh mục và tận tụy loan báo Tin mừng, chia sẻ cuộc sống cùng với bánh Thánh Thể cho anh chị em, gieo vãi hy vọng.
Đức Thánh cha khẳng định: “Mục đích của mỗi ơn gọi là trở thành những người hy vọng. Trong tư cách cá nhân và cộng đoàn, trong các đoàn sủng và thừa tác vụ khác nhau, tất cả chúng ta đều được kêu gọi thể hiện niềm hy vọng của Tin mừng trong thế giới đang bị những thách đố to lớn: hiểm họa thế chiến thứ ba từng mảnh lan rộng, những đám đông di dân tị nạn khỏi quê hương của họ để tìm một tương lai tốt đẹp hơn; số người nghèo liên tục gia tăng, nguy cơ sức khỏe của trái đất bị thương tổn không thể hồi lại được. Tất cả những điều đó, cộng thêm với những khó khăn chúng ta gặp hằng ngày, và nhiều khi làm cho chúng ta lâm vào thái độ cam chịu và chủ bại”.
Trong bối cảnh trên đây, Đức Thánh cha khẳng định: “điều quan trọng đối với các Kitô hữu chúng ta là vun trồng một cái nhìn đầy hy vọng, để có thể làm việc hiệu quả, đáp ứng ơn gọi được ủy thác cho chúng ta, phục vụ Nước Thiên Chúa, nước tình thương, công lý và hòa bình”.

MỤC TỬ THẬT, MỤC TỬ GIẢ - Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu

Hôm nay, Chúa Nhật Chúa Chiên lành, ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, nam nữ tu sĩ, để các ngài luôn trở nên những mục tử như lòng Chúa mong ước là chính Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành.
Không những chỉ cầu nguyện cho các linh mục nam nữ tu sĩ trong Giáo hội mà còn cầu nguyện cho tất cả những người cầm quyền trị nước, những bác sĩ, những thầy cô giáo, những cha mẹ…, trở nên những mục tử tốt lành. Vì một cách nào đó, họ cũng là những “mục tử”: các vị chính quyền là “mục tử” của người dân, thầy cô giáo là “mục tử” của học sinh, bác sĩ là “mục tử” của bệnh nhân, cha mẹ là “mục tử” của con cái.
Tin mừng của thánh Gioan hôm nay ghi lại việc Chúa Giê-su mặc khải cho chúng ta biết Ngài là mục tử nhân lành và mục tử đích thật. Đồng thời qua đó Ngài đưa ra những tiêu chuẩn để phân biệt người mục tử thật và mục tử giả, người mục tử nhân lành và kẻ làm thuê:
Người mục tử nhân lành, mục tử thật thì sống chết với đàn chiên, đến nỗi dám hy sinh tính mạng vì đàn chiên. Còn kẻ chăn thuê, mục tử giả, thì không đồng cam cộng khổ với đàn chiên, không dám hy sinh tính mạng vì đàn chiên: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Người làm thuê, vì chiên không phải là của mình, nên khi chó sói đến đe doạ đàn chiên, thì bỏ mặc đàn chiên trong nguy hiểm để chạy thoát thân. Sói sẽ vồ lấy chiên và làm cho đàn chiên tan tác”.
Người mục tử nhân lành thì luôn tìm cách dẫn chiên đến đồng cỏ tươi non, suối nước trong lành…, còn kẻ chăn thuê thì bỏ mặc chiên muốn đi đâu thì đi.
Người mục tử thật thì hiểu biết chiên và chiên biết mục tử. Còn người mục tử giả thì chẳng biết chiên và chiên cũng chẳng biết người mục tử giả.
Người mục tử thật thì luôn lên đường tìm kiếm chiên để đưa chiên về đàn, còn người mục tử giả, thì chẳng màng chi đến việc tìm kiếm chiên: “Tôi còn có những chiên khác không thuôc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một người mục tử”.
Dựa vào tiêu chuẩn của bài Tin mừng hôm nay, chúng ta có đủ khôn ngoan, tỉnh táo để phân biệt trong môi trường xã hội ai là người thể hiện tinh thần người mục tử thật và người mục tử giả? Ai là người thương dân, yêu dân như con? Ai là kẻ ghen ghét, giết hại dân, coi dân như kẻ thù?
Lạy Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân lành tối cao, xin đừng bỏ mặc đàn chiên nhân loại chúng con trong tay những kẻ mục tử giả, những kẻ chăn thuê, nhưng xin gửi đến cho chúng con những mục tử đích thực hết lòng vì đàn chiên. Amen.

MỤC TỬ VÀ ĐÀN CHIÊN – Lm Giacôbê Tạ Chúc

Ca dao Việt nam có những ca từ thật giản gị và gần gũi, để diễn tả mối quan hệ hai chiều giữa những thành viên trong xã hội với nhau như:
“Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai”
Hai mà một, một mà hai, thật như thế, tình yêu thương giữa các ngôi vị với nhau: Ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái…Cha ông ta cũng thường nói:”Bán bà con xa, mua láng giềng gần”.
Hình ảnh kinh thánh quen dùng để diễn tả cho chúng ta thấy, một tương quan sâu đậm, khắng khít, một sống một còn, giữa Thiên Chúa và con người, giữa các vị chủ chăn và các Tín hữu là “Mục tử” và “Chiên”. Những kiểu nói này không xa lạ gì đối với những anh chị em sống ở vùng Trung đông, ở đất nươc Do thái. Người mục tử tận tụy, hy sinh từng bữa ăn giấc ngủ để lo cho đàn chiên, còn chiên thì lắng nghe tiếng vị mục tử của mình. Đức Giêsu khẳng định rằng:” Tôi biết các chiên tôi, và các chiên tôi biết tôi”(Ga 10, 14 ). Không biết có một vị Quân vương nào trên trần gian này, dám khẳng định mình biết hết thần dân của mình không? Thiên Chúa biết con người từ khi chưa thành hình trong dạ Mẫu thân:” Trước khi Ta nắn ra ngươi trong lòng Mẹ, Ta đã biết ngươi; và trước khi lọt dạ mẹ, ta đã tác thánh ngươi” (Gr 1,5). Mục tử Giêsu chẳng những biết mà còn biết rõ từng con người:” Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến thầy”( Ga 21, 17). Còn thánh Phaolô, thì xác tín một cách mạnh mẽ, về cái “biết” của chúa Giêsu: biết con khi ngồi, khi đứng, khi nghĩ suy. Mục tử là như vậy, phải biết rõ từng con chiên của mình, phải đi tìm những con chiên lạc, băng bó cho những con chiên bị bệnh họan. Nếu mục tử cần thiết cho đàn chiên như vậy thì ngược lại chiên cũng cần biết bao cho các vị mục tử. Không có Mục tử nào mà chăn không có chiên, vì như thế chẳng khác nào người nghệ sỹ chơi đàn mà khong có dây, chẳng mang lại ích lợi gì cho những khán thính giả. Có chiên mới cần mục tử, mục tử sống cần “sữa”, cần “thịt” từ những con chiên, có thể nói mối hổ tương như là “Ôxy” để thở, như là ” cá với nước”. Chiên cua tôi thì biết tôi( Ga 10,14), lời khẳng định này càng làm gia tăng tình yêu thương thắm thiết trong quan hệ song phương giữa các vị chủ chăn và những anh chị em giáo dân trong các họ đạo. Lối so sánh cụ thể ở các cụm từ” Muc tử” và ” Chiên” không hề hạ thấp hay đề cao tương quan quý giá của những vị mục tử lãnh đạo trong các cộng đoàn với những anh chị em giáo dân, những cộng sự viên đắc lực đang phục vụ cho vị Mục tử tối cao và nhân từ là Đức Giêsu Kitô. Trái lại nó còn làm tăng thêm giá trị hiến tế của mỗi người được trở nên của lễ tinh tuyền và thánh thiện, đẹp lòng thiên Chúa.
“UT SINT UNUM”, Chúa Giêsu vẫn thường cầu nguyện cho sự hiệp nhất nên một, trong các cộng đòan Kitô hữu. Thánh lễ hằng ngày vẫn nhắc nhở sự hiệp nhất giữa đòan chiên và vị chủ chăn. Vẫn phải trau dồi và cố gắng để mỗi ngày trỏ nên những mục tử giàu lòng nhân ái, giàu nghĩa tín trung cho đòan chiên của Chúa hưởng nhờ.

HY SINH MẠNG SỐNG VÌ CHIÊN - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.


Nơi bìa trước của cuốn Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo
có một hình vẽ bằng những nét phác họa đơn sơ.
Hình này dựa trên bức khắc của một phiến đá ở ngôi mộ cổ,
trong hang toại đạo ở Rôma, vào cuối thế kỷ thứ ba.
Ta thấy hình một người chăn chiên đang ngồi.
Một con chiên nằm ở kề bên, quay mặt vào anh.
Người chăn chiên tượng trưng cho Đức Giêsu Mục tử.
Tay trái Ngài cầm chiếc gậy để dẫn dắt và bảo vệ chiên,
Tay phải Ngài cầm chiếc sáo đưa gần miệng,
thu hút con chiên với cung điệu du dương.
Cả người chăn chiên và con chiên đều ở dưới bóng cây.
Đây là “cây sự sống”, cây Thánh giá cứu chuộc nhân loại.
Hình ảnh Người Mục tử an bình bên cạnh con chiên
cho thấy linh hồn người đã khuất cũng mong được an nghỉ
trong hạnh phúc của cuộc sống vĩnh hằng.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
hai lần Đức Giêsu ví mình với người mục tử tốt (Ga 10, 11.14).
Năm lần Ngài nhắc lại nét đặc trưng của người mục tử:
đó là hy sinh mạng sống cho đàn chiên (Ga 10, 11.15.17.18).
Ai cũng quý mạng sống mình hơn nhiều thứ khác.
Đức Giêsu khẳng định: chỉ ai yêu bằng tình yêu lớn nhất
mới dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu (Ga 15, 13).
Như thế mục tử tốt là người coi chiên như bạn,
và yêu chiên bằng một tình yêu lớn lao.
Đàn chiên “thuộc về” người mục tử, là một với người ấy,
nên người mục tử dám sống chết với đàn chiên.
Đây là điểm khác biệt giữa vị mục tử và anh chăn thuê:
Anh chăn thuê không quan tâm đến chiên,
vì chiên “không thuộc về” anh, nhưng thuộc về ông chủ.
Vì không chút gắn bó với chiên, nên khi sói dữ đến,
anh chăn thuê bỏ chiên mà chạy, mặc đàn chiên tan tác.
Anh ta coi mạng sống mình trọng hơn chiên.
Còn người mục tử tốt thì coi chiên trọng hơn mạng sống.
Trong Cựu Ước, Đấng Mêsia bởi dòng Đa vít là một mục tử.
Người mục tử có nhiều trách nhiệm với chiên:
săn sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng chiên là đoàn dân thánh,
nhưng không thấy Cựu Ước nói đến chuyện hy sinh mạng sống.
Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia, vị Mục tử do Cha sai đến.
Trong cuộc chiến bảo vệ chiên chống lại sói dữ,
vị Mục tử Giêsu có vẻ như đã thua cuộc,
thậm chí, Ngài đã chết trong cuộc chiến ác liệt này.
Nhưng Đức Giêsu cho thấy Ngài không thua cuộc.
Ngài chết không phải vì ở thế yếu,
nhưng để vén mở một tình yêu tự nguyện:
“Mạng sống này, không ai lấy đi khỏi tôi,
nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình (Ga 10, 18).
Cái chết không phải là một thất bại,
nhưng là để cho thấy quyền năng của Đấng phục sinh:
“Tôi có quyền hy sinh mạng sống, và có quyền lấy lại.
Đó là mệnh lệnh tôi đã nhận từ Cha tôi.”
Cứ sự thường, khi mục tử chết thì đàn chiên cũng tan.
Nhưng Mục tử Giêsu chết để đàn chiên được nguyên vẹn:
“Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28).
Ngài chết để quy tụ những chiên chưa thuộc về ràn,
những chiên chưa nhận biết được tiếng của Ngài.
Ước mơ của Ngài là sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục tử.
Trong Chúa nhật hôm nay, khi chiêm ngắm Chúa Giêsu Mục tử,
chúng ta cầu cho các vị mục tử trong Hội Thánh
được ơn hiểu biết nhu cầu của chiên và quan tâm đến chiên,
dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và bảo vệ chiên khỏi sói dữ,
đưa chiên lạc về một ràn và hy sinh mạng sống mình vì chiên.
Nhờ đó cả nhân loại thành đoàn chiên của Thiên Chúa.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
Xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời đang gần bên. Amen.

CHÚA KITÔ MỤC TỬ TỐT LÀNH – Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang

Nhập lễ:
Kính thưa cộng đòan phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 4 phục sinh hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu là Mục tử tốt lành và ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên bằng tình yêu tha thiết. Người chăm sóc chúng ta và dẫn chúng ta đến cuộc sống hạnh phúc muôn đời:
Vì chiên Chúa đã hiến thân,
Dẫn đường quy tụ thành đoàn chiên ngoan.
Sớm hôm chăm sóc bảo ban,
Mong sao chiên béo, bình an suốt đời.
Được làm con Chúa bạn ơi!
Sống ngoan sống thánh như lời Chủ chiên.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta trở nên những con chiên ngoan ngoãn bước theo sự dẫn dắt của chủ chiên. Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn các bạn trẻ biết đáp lại tiếng Chúa cách quảng đại, dâng mình cho Chúa trong đời sống tu sĩ và linh mục, để dấn thân phục vụ trong vườn nho của Chúa. Trong tâm tình, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là Mục tử tốt lành thí mạng sống mình vì đàn chiên. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa là Mục Tử chăn dắt đàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Dân tộc Do thái được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Một khi Thiên Chúa quy tụ họ thành một đoàn chiên thì Thiên Chúa cũng định liệu cho họ một chủ chiên để thay mặt Ngài hướng dẫn và dẫn dắt họ đến đồng cỏ xanh tươi. Chính vì thế, qua dòng lịch sử của dân tộc Do thái, chúng ta thấy Thiên Chúa đã chọn gọi và gởi đến với họ những mục tử tốt lành. Từ thời Môisen cho đến tổ phụ Apraham, và qua các thời đại của vua Đavít. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa. Chính Người dùng hình ảnh người mục tử và đoàn chiên để nói lên mối liên hệ của chúng ta với Người. Chính Người đã xác quyết: “Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
Thưa anh chị em, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Chúa Kitô là Mục tử tốt lành. Còn chúng ta là đoàn chiên của Người. Chúa Kitô là mục tử tốt lành không những lo thỏa mãn những nhu cầu cho đoàn chiên, Người hằng chăm sóc mọi người, cho người tàn tật được chữa khỏi, nhưng nếu cần còn thí mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên. Điều đó thúc bách chúng ta vào sống trong đoàn chiên của Người để được cứu độ. Xác tín như thế, Thánh Phêrô quả quyết chính nhờ danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng ta, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây.
Chúa Kitô là Mục tử tốt lành. Người mục tử tốt lành biết chiên của mình và các chiên cũng biết người ấy. Sự hiểu biết chính là đời sống yêu mến, chăm sóc, gần gũi, thân mật, tin tưởng và phó thác trọn vẹn. Sự hiểu biết phát xuất từ tình yêu và sẽ dẫn đến tình yêu biểu lộ qua hành động như lời Người vẫn nói: Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu.
Chúa Kitô là Mục tử tốt lành. Người mục tử tốt lành này còn có một hoài bảo là xây dựng sự hiệp nhất trong đoàn chiên, muốn qui tụ tất cả trở thành một đoàn chiên duy nhất được chăm sóc bởi một mục tử duy nhất là chính Chúa Kitô, và vì lòng tha thiết yêu thương hiệp nhất này mà người mục tử tốt lành sẵn sàng cất bước ra đi tìm những chiên lạc: Ta còn nhiều chiên khác nữa không thuộc về đàn này, Ta cũng phải đưa chúng về, chúng sẽ nghe tiếng Ta.
Chuyện kể rằng, Ðức cha Jean Cassaigne ngay sau khi tấn phong Cha Simon Hòa Hiền năm 1955, ngài đã trở lại để vui sống với anh em bệnh nhân trại cùi, một làng nhỏ chính tay ngài tạo dựng. Tại làng nhỏ bé này, ngài chăm nom chu đáo cho tất cả bệnh nhân mọi tôn giáo, trẻ già, với sự cộng tác nhiệt thành của các sơ dòng Bác Ái Vinh Sơn. Ngài quyết tâm sống chết với con cái cùi hủi của ngài. Vì sống một đời sống quá khắc khổ trong rừng nên Ðức Cha đã mang nhiều bịnh nặng. Năm 1929, ngài đã mắc bịnh sốt rét rừng. Năm 1943, bịnh cùi đã đến với ngài vì sống gần gũi với người bịnh. Những ngày cuối cùng tuy đau đớn, nhưng ngài vẫn đọc kinh cầu nguyện cho các người cùi. Ngài nói: “Suốt 47 năm dài, Cha đã sống giữa các con, và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây, Cha không tiếc một điều gì về sự dâng hiến toàn diện ấy”. Ngài qua đời tại Di-Linh ngày 31-10-1973.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hình ảnh của Ðức cha Jean Cassaigne trong câu chuyện trên đây, đã họa lại chân dung của người mục tử tốt lành là Chúa Kitô. Người đã chăm sóc các nhu cầu của từng người và nhất là Người đã hy sinh mạng sống để cứu nhân loại khỏi chết. Hôm nay, cùng với Hội thánh chúng ta mừng lễ Chúa Chiên Lành. Chúng ta được diễm phúc không chỉ là con chiên trong đoàn chiên của Chúa Kitô nhưng còn là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta được diễm phúc có Chúa Kitô là mục tử tốt lành và nhờ Chúa Kitô mà trở nên con Thiên Chúa, chúng ta phải bám chặt vào Chúa Kitô, quyết sống trong đoàn chiên của Người là Hội thánh bởi luôn biết vâng nghe và thực hiện các hướng dẫn của Chúa Kitô mục tử là Hội thánh Người.  Chúng ta cũng có bổn phận cổ võ ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ không những bằng lời cầu nguyện mà còn bằng cả của cải vật chất nữa để Hội thánh có điều kiện huấn luyện và đào tạo. Đó là những nghĩa cử tốt lành của những con chiên trong cùng một đoàn chiên của Chúa Kitô.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta trở nên những con chiên ngoan ngoãn bước theo sự dẫn dắt của chủ chiên. Xin Chúa cũng sai đến những thợ gặt lành nghề trên cánh đồng truyền giáo. Xin khơi dậy nơi tâm hồn các bạn trẻ biết đáp lại tiếng Chúa cách quảng đại để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân trong vườn nho của Chúa. Amen.

MỤC TỬ   - Linh Ân

Trong Kinh thánh, tước hiệu “mục tử” được ban cho những ai bắt chước sự ân cần, tận tâm của Thiên Chúa để lo cho tình trạng an vui của dân mình. Vì vậy, các vua, tư tế, và nói chung, mọi vị hữu trách trong dân cũng được gọi là mục tử. Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu cho thấy sự đối lập giữa mục tử và người chăn thuê. Sự đối lập này gây nên một sự căng thẳng không hề nhỏ, đến nỗi Chúa Giêsu nói: “những kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp”. Câu hỏi được đặt ra: ai là mục tử và ai là người chăn thuê? Trong giới hạn, con mời cộng đoàn cùng với con chiêm ngắm những gương mặt lãnh đạo của dân Israel thời bấy giờ về mặt dân sự và tôn giáo.
Về dân sự, thời Chúa Giêsu, ta không thể không nhắc đến dòng họ Hêrôđê với ba đời làm vua của Israel. Dòng họ ấy được khởi đầu với vua Antipater, được tiếp nối với Hêrôđê Đại đế - người đã giết các con trẻ vùng Giêrusalem, và Hêrôđê Antipas là người đã giết ông Gioan tẩy giả và được Chúa Giêsu gọi là “con cáo”. Có thể nói, dòng họ Hêrôđê là một dòng họ say mê quyền lực, gồm những người độc tài khát máu. Vì quyền lực, họ có thể giết nhau dù thân thích. Chính quyền Hêrôđê thời bấy giờ là chính phủ bù nhìn, họ dựa vào Rôma để cai trị dân. Họ bắt dân nộp đủ thứ thuế, để nộp tiền cho đế quốc Roma, hầu lấy quyền tự quyết, và để xây cất biết bao công trình, lâu đài; cũng như bắt dân làm lao động khổ sai cho những công trình ấy. Chỉ có dân là khốn khổ, sống là để nộp thuế. Dân chúng tất tưởi lầm than, những ai đóng không đủ thuế thì bị bán làm nô lệ. họ bị lưu đày trên chính quê hương của mình. Vì thế, lúc nào dân Do Thái cũng muốn nổi loạn chống Rôma. Khi quá thất vọng về những nhà lãnh đạo dân sự, dân chúng tìm đến những nhà lãnh đạo tôn giáo như một sự an ủi. nhưng họ thì sao?
Lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu được phân thành hai nhóm chính là nhóm Xa đốc và Pharisêu, nhưng nổi bật hơn vẫn là nhóm Pharisêu. Nếu như nhóm Xađốc là những thầy Tư tế chỉ giữ luật luật Torah, tức những gì viết trong 5 cuốn đầu của Cựu Ước, thì nhóm Pharisêu lại giữ vừa luật Torah vừa giữ cả những lời giải thích, cắt nghĩa luật được truyền khẩu từ xưa tới nay. Nhóm Pharisêu thì giữ luật khắt khe hơn nhóm Xađốc và nhấn mạnh đến chi tiết của luật, vì càng đi vào chi tiết càng dễ giúp cho người ta nên thánh. Thế nhưng, vì quá đi vào chi tiết khắt khe, họ đã không giữ nổi. Họ giảng cho người khác, bắt người khác giữ mà mình không làm được. chính vì thế Chúa mới nói vợi họ là đồ giả hình. Hơn nữa, qua những lời Chúa Giêsu kết án: làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, nuốt hết tài sản của các bà góa, cướp bóc và ăn chơi vô độ, ham hố tiền bạc,... ta còn biết nhóm này là những người ăn trên ngồi trốc, đi với nhóm quyền lực (bắt tay với Rôma, Hêrôđê) mà hành hạ dân. Đó là những gương mặt lãnh đạo của Dân Israel thời bấy giờ, mà Đức Giêsu gọi là người chăn thuê, hay nặng hơn là kẻ trộm cướp.
Đối lập với những “kẻ trộm” chính là người mục tử. Nơi bài tin mừng, chúng ta nhận ra ba hình ảnh của người mục tử tốt lành. Đó là người mục tử “biết” đoàn chiên của mình. Lẽ dĩ nhiên, cái biết ở đây không chỉ dừng lại ở lý trí, vô cảm, nhưng là đi vào tương quan gắn bó, gần gũi và hết lòng yêu mến đoàn chiên. Thứ hai, người mục tử đích thực là người biết chăm sóc, đi trước và bảo vệ đoàn chiên khỏi sự tấn công của lũ sói, dẫu phải đối diện với nguy cơ phải bỏ mạng. Thứ ba, người mục tử tốt lành là người dám hy sinh thời gian, sức khỏe và đặc biệt là dám hiến dâng mạng sống mình vì đoàn chiên. Ba hình ảnh này được kết tinh nơi Chúa Giêsu – Người là mục tử nhân lành. CGS biết từng người trong chúng ta. Ngài khát khao nên một với chúng ta. Chúa nuôi dưỡng chúng ta qua mình và máu Ngài. Qua cuộc khổ nạn, Người đã dám chết và sống lại cho chúng ta; nhờ đó, các tín hữu được đưa vào trong không gian sự sống của Thiên Chúa, để họ được sống và sống dồi dào.
          Sự đối lập giữa Mục tử và “người chăn thuê” mà bài tin mừng nói đến hôm nay là lời mời gọi chúng ta biết lắng nghe và bước theo vị Mục tử đích thực là Chúa Giêsu để tiến về đồng cỏ xanh tươi, chứ không chạy hay nghe theo tiếng của người “lạ” – tiếng nói vẫn lôi cuốn chúng ta đi xa Chúa.
Chúng ta tiếp tục tham dự thánh lễ hôm nay với niềm cảm tạ tri ân vì Chúa là mục tử vẫn đang nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta qua bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Chúng ta cũng tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho Giáo hội những vị mục tử tốt lành, để qua các ngài, các tín hữu được kín múc ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa nâng đỡ những mục tử trong lòng Giáo hội, vì những thách đố mà các ngài đang gặp phải. Hơn hết, là những Kitô hữu, chúng ta cũng hãy là “mục tử” cho đời mình và cho người khác. Cho đời mình, nghĩa là biết sống có trách nhiệm mà hoàn thiện bản thân trong thánh ý của Thiên Chúa. Cho người khác, là biết quan tâm, nâng đỡ, yêu thương  mà giúp cho tha nhân tìm được hạnh phúc.

CHÚA CHIÊN LÀNH - Br. Vincent SJ


Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

·  Đoạn tin mừng nằm trong bối cảnh Đức Giêsu vừa chữa một người mù từ thuở mới sinh. Ngài xác định rất rõ ràng cho những người nghe vừa chứng kiến phép lạ đó: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành”. Ngài làm trước rồi mới nói sau. Sự dễ thương nhân lành của Giêsu là ở đó. Tôi được mời gọi gì trong lối sống này?

·    Sự nhân lành của Đức Giêsu thể hiện lòng thương xót của Ngài khi nhận mình là Mục Tử. Ngài trở thành người hướng dẫn và chăm sóc cho con người. Muốn làm đầu trước tiên phải là người phục vụ. Ngài thi hành sứ mạng phục vụ chữa lành cho con người. Thực thi sứ mạng Mục Tử mời gọi tôi cần chuẩn bị gì?

·    Sự nhân lành của Đức Giê su trở nên tuyệt đối khi Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Không dễ để hy sinh, để chịu những đau khổ… Đức Giêsu hy sinh vì tình yêu đối với Cha và với con người. Chính việc hy sinh bản thân mình mà Ngài trở nên Mục Tử nhân lành. Tôi được mời gọi hy sinh những điều gì cách cụ thể?
→ Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Chiên Lành, cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Nhưng trên hết, chúng ta hãy cám ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một gương mẫu tuyệt vời chính là Đức Kitô. Hãy cầu nguyện cho ơn gọi đầu tiên là trở nên người và làm con Thiên Chúa. Khi chúng ta sống tròn đầy ơn gọi này thì mới tới việc chọn lựa bậc sống. Tôi thấy mình mở lòng đón nhận ơn này ra sao?
→ Sống ơn gọi tu trì đòi phải hy sinh rất nhiều. Nếu không có sự hy sinh, con người sẽ khó sống tròn đầy và dấn thân hết mình cho Chúa và tha nhân. Tôi đang được mời gọi sống bậc sống nào?

·   Lạy Chúa, xin cho con luôn chọn Chúa là cùng đích cuộc đời con.
 
 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây