SUY NIỆM CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH NĂM B LỄ CHÚA THĂNG THIÊN

Thứ sáu - 10/05/2024 17:59

CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH NĂM B
LỄ CHÚA THĂNG THIÊN
Mc 16,15-20

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mac-cô.
15 Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
Các bài suy niệm

 

SUY NIỆM 1: Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI 

Lời Chúa: “Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Hôm nay Giáo hội mừng kính trọng thể Chúa lên trời. Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu sau khi đã hòan tất sứ mạng của Người ở trần gian mà lên trời trước sự chứng kiến của các Tông đồ, và khai mở cho chúng ta một kỷ nguyên mới trong việc loan báo Tin Mừng:
Về trời Chúa chẳng bỏ rơi,
Nhưng Người khai mở một thời sai đi.
Vững tin vào Chúa quyền uy,
Cộng đoàn Hội Thánh thực thi lệnh truyền.
Phần ta đã được mang tên,
Là con Hội Thánh phải nên Tông đồ.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta hân hoan loan báo Tin Mừng của Chúa bằng chính đời sống chứng nhân để cùng với Người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đến trần gian để cứu độ chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã Phục sinh khải hoàn và đang ngự bên hữu Chúa Cha. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa đã trao cho Hội Thánh sứ mạng loan báo Tin Mừng của Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Trong cuộc sống của con người, chúng ta không thiếu những lần tự hỏi: tôi bởi đâu mà đến? tôi sinh ra trên đời này để làm gì? và sau cuộc đời này tôi sẽ đi về đâu?. Câu trả lời thiết thực nhất mà ai cũng có thể cảm nhận được, hiểu được ý nghĩa của nó khi chúng ta suy ngắm cuộc đời của Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu nói: “Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi” (Ga 7,29). Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật (Ga 18,37). “Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19). Đời người kitô hữu, ngang qua bí tích Thánh tẩy chúng ta được tháp nhập vào Chúa Kitô trở nên chi thể của Người, chúng ta cũng được mời gọi trở nên giống như Người để cùng với Người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Thưa anh chị em, phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn trình bày Chúa Kitô như một vị chiến thắng và khải hoàn đang tiến lên, theo sau Người là tất cả chúng ta, những người đã được Người cứu chuộc, đã được thông phần vào niềm hạnh phúc Nước Trời. Sau khi Chúa Kitô lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng Tin Mừng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo. Nếu như trong những lần thực tập truyền giáo trước đây, các Tông đồ được sai đến với “các chiên lạc nhà Israel” thì bây giờ các ông được Người sai đến với muôn dân, hơn nữa, đến với mọi loài thụ tạo: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Các tông đồ được sai đi để loan báo Tin Mừng mới lạ, một Tin Mừng cho muôn dân. Đó là Tin Mừng về việc cứu độ con người. Chúa hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông: “Nhân danh Thầy họ trừ được quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay… cho bệnh nhân được khỏe”. Những “dấu lạ” được hứa này chỉ có một giá trị tượng trưng, điều này hiểu Chúa sẽ luôn đồng hành để giúp các Tông đồ chiến thắng thế lực của sự dữ. Chúa Kitô đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại, giờ đây sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ được trao cho các Tông đồ, các môn đệ là những chứng nhân.
Chuyện kể rằng: Thomas là tài xế taxi. Anh rất muốn tham gia các hoạt động trong giáo xứ để góp phần vào việc truyền giáo, nhưng công việc của anh không cho phép. Bỗng một hôm, có hành khách hỏi mượn cuốn Thánh Kinh mà anh để gần tay lái. Thế là anh và ông ta có một cuộc trao đổi lý thú về Chúa Kitô. Từ đó trên xe của Thomas luôn có cuốn Thánh Kinh, và càng ngày anh càng thấy có nhiều cơ hội để chia sẻ với hành khách về những gì Thiên Chúa đã làm cho anh. Anh tích cực và vui sướng vì đang góp một phần nhỏ bé cho công cuộc truyền giáo.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chúa Kitô đã hoàn tất sứ mạng cứu chuộc nhân loại. Nhưng kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa thì chưa chấm dứt. Cho nên trước khi về trời Chúa Kitô trao ban sứ mệnh truyền giáo cho các Tông đồ, cho Giáo hội như một di chúc, một mệnh lệnh và do đó sứ mệnh truyền giáo trở thành bản chất của Giáo hội. Được trở nên chi thể trong nhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta cũng được trở nên nhân chứng Tin mừng Phục sinh nơi gia đình, giáo xứ và xã hội mà chúng ta đang sống. Chúng ta hãy tích cực đáp trả bằng một đời chứng tá sống động và tích cực trong các hoạt động loan báo Tin Mừng. Chúa không đòi nơi chúng ta một cái gì cao xa nhưng Người muốn chúng ta biết mở rộng tâm hồn, con tim để sống cho Người và cho tha nhân. Đó là dấu lạ mà Chúa muốn chúng ta thể hiện.
Ước gì mỗi khi hướng lòng về trời cao, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa cuộc đời mà tích cực vững bước trên con đường Chúa Kitô đã đi, để mai sau chúng ta cũng được chung hưởng hạnh phúc vinh quang với Người. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

SUY NIỆM 2: ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI

Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói:Ta phải chọn một người kế tục.Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.
Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.
Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?
Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu.
Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.
Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới,trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.
Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trở về quê trời.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.
Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.
Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.
Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao.
“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

SUY NIỆM 3: SỨ VỤ ĐƯỢC TRAO BAN

Trong bài đọc 1 trích sách Tông đồ Công vụ, thánh sử Luca đã ghi lại cho chúng ta những lời sau cùng trước khi Chúa Giêsu Kitô về trời: “...anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8)
Sau nhiều lần hiện ra với các môn đệ bằng thân xác Phục sinh để củng cố niềm tin cho các ông, Chúa Giêsu biết các ông đã có đủ khả năng để thi hành sứ vụ mà Ngài sẽ ủy thác, giờ đây Ngài về cùng với Chúa Cha và sai Thánh Thần Chúa đến để gia tăng sức mạnh cho các ông. Thánh Thần sẽ giúp các ông tạo một sự đột phá ngoạn mục để từ đây những kẻ nhút nhát trở nên hùng dũng, những kẻ yếu đuối trở nên mạnh mẽ, những kẻ ngu dốt trở nên khôn ngoan, những kẻ thất học trở nên hiền triết...
Sứ mạng làm chứng cho Đấng Phục Sinh được cụ thể hóa qua lời ghi chép của thánh sử Marcô: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.(Mc 16,15-16)
Tin mừng không chỉ được rao giảng ở Giêrusalem, Giuđê, Samaria cho dân tộc Do Thái, mà cần phải được loan báo khắp tứ phương thiên hạ và cho mọi thụ tạo. Đây là một sứ vụ hết sức cao cả nhưng cũng đầy trách nhiệm mà người môn đệ Chúa Giêsu phải tận tâm, tận lực để thi hành. Muốn cho sứ vụ trổ sinh nhiều bông hạt - ‘các tín hữu ngày càng thêm đông số’, người môn đệ Chúa Giêsu phải: mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau... để cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong lòng... Và tất cả những gì người môn đệ làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô...” (x. Cl 3,12-17).
Nói một cách khác, sứ vụ làm chứng cho Đấng Phục Sinh chỉ có thể hoàn thành cách viên mãn khi người môn đệ Chúa Giêsu là người để cho Tin mừng thấm nhập, biến đổi và thánh hóa toàn diện con người của mình; để giờ đây Đức Kitô sống động trong chính con người và mọi hoạt động của họ. Thánh sử Marcô đã ghi nhận các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng. (Mc 16,20).
Thế nhưng, trải qua dòng lịch sử, những điều được ghi nhận nơi các tông đồ đã dần dần bị phai nhạt, rỉ ố, hoen mờ...nên sứ vụ mà Chúa Giêsu ủy thác đã không còn được các tín hữu ngày nay đặt làm trọng tâm trong đời sống đức tin – chứng tá của mình. Ngày nay họ bị bao quanh bởi cơm áo, gạo tiền, địa vị, quyền lực... dẫn đến đánh mất khả năng để cho ‘lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong lòng’; đánh mất lòng muốn ‘làm vì danh Chúa Giêsu Kitô’. Cho nên số các tín hữu ‘không tăng’ mà còn có nguy cơ ‘sụt giảm’; ơn cứu độ không đến được với muôn dân; sứ vụ không trổ sinh nhiều bông hạt.
Nhận biết được điều này, không phải là để cho chúng ta bi quan nhưng là để chúng ta ý thức lại sứ vụ của người môn đệ Chúa Giêsu; là đừng để cho các thứ học thuyết, các chủ nghĩa thế gian mê hoặc, nhưng để cho Thánh Thần ‘soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh’ (Cl 1,18). Một cuộc hồi tâm, một cuộc phản tỉnh là điếu cần thiết để ‘Đức Kitô được tôn lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai.’  (x. Cl 1,21).
Ước gì ngày Đức Giêsu Kitô ngự đến lần thứ hai trong Vinh Quang là ngày Sứ vụ mà ngài ủy thác được hoàn thành viên mãn, là ngày Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.
Lm. Fx. Nguyễn Phạm Hoài Thương

SUY NIỆM 4: QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA Ở TRÊN TRỜI


Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, cả 3 bài đọc lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay đều tập trung trình bày cho chúng một cách chi tiết về biến cố CGS lên Trời. Sở dĩ như thế là vì Giáo Hội muốn nhấn mạnh với chúng ta hai chân lý này:
Thứ nhất, việc Chúa Giêsu  về Trời là một biến cố có thực chứ không phải hư ảo.
Trong bài đọc 1, tác giả sách Công vụ tông đồ đã trình bày rất rõ là sau 40 ngày hiện ra, cùng ăn cùng uống và sống với các Tông đồ, Chúa Giêsu  đã tụ họp các ông lại một nơi, nói với các ông những lời sau cùng, và Ngài đã được cất lên Trời trước mặt các tông đồ. Phải nhấn mạnh đến điều này là vì ngày nay còn có rất nhiều người cho rằng chuyện Chúa Giêsu lên Trời chỉ là một câu chuyện hư cấu được thêu dệt bởi sự mê tín của những người tin theo Chúa Kitô, chứ làm gì có chuyện kẻ chết sống lại rồi tự bay lên thiêng đàng.
Thứ hai, việc Chúa Giêsu về Trời nhắc cho chúng ta nhớ: “Quê hương của chúng ta ở trên Trời” (Pl 3,20).
Sở dĩ dám khẳng định như thế là vì Chúa Giêsu đã từng hứa với các tông đồ năm xưa và cả chúng ta hôm nay rằng: “Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em, rồi Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3). Để thực hiện lời hứa ấy, Chúa Giêsu đã không ngừng cầu xin với Chúa Cha: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17,24). Như vậy, việc Chúa Giêsu  về Trời không chỉ đơn thuần là Ngài trở về cùng Cha, nhưng Chúa Giêsu còn mở ra cho chúng ta một con đường và dẫn chúng ta vào hưởng hạnh phúc với Ngài.
Phần chúng ta, để xứng đáng được về Trời với Chúa và trở thành công dân Nước Trời thì ngay khi còn ở đời này anh chị em cần lưu tâm đặc biệt đến 2 thực hành cụ thể sau.
Thứ nhất, trong mọi sự anh chị em phải luôn luôn biết ái mộ những sự trên Trời. Một trong những sai lầm mà nhiều kitô hữu hôm nay mắc phải đó là cảm thấy thỏa mãn và muốn dừng lại nơi những cái ở đời này mà chẳng còn nghĩ gì đến đời sau.
Bằng chứng là có nhiều người Công giáo vẫn buôn gian bán lận, gian dối lừa gạt, li dị ngoại tình mà bất chấp mọi lề luật của Chúa và Hội Thánh, bất chấp lương tâm mách bảo gì; nhiều người trẻ Công giáo lao vào ăn chơi hưởng thụ, ăn ở với nhau như vợ chồng trước hôn nhân, ngừa thai phá thai vô nhân đạo mà bất chấp điều đó là tội hay không tội… Đó là những cơn cám dỗ của cuộc đời mà chỉ những ai luôn hướng lòng về Nước Trời thì mới có đủ ý chí và nghị lực để vượt qua được mà thôi thưa anh chị em.
Có lần Chúa Giêsu đã nói một câu đầy thuyết phục như thế này: cho dù “được lời lãi cả thế gian mà mất phần linh hồn thì nào có ích gì”. Thật vậy, cho dù khi ở đời này anh chị em có làm ông này bà nọ, có là đại gia địa chủ đi chăng nữa; mà mai sau không được sự sống đời đời làm gia nghiệp thì anh chị em cũng chỉ là những ki-tô hữu nghèo nàn và đáng thương nhất. Hãy gẫm về điều đó để trong mọi sự luôn biết ái mộ những sự trên Trời!
Và thứ hai, hãy nhớ lại và sống lệnh truyền của Chúa Giêsu được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho các loài thọ tạo”, nghĩa là hãy giúp cho người khác biết Chúa Giêsu chính là đường là sự thật và là sự sống.
Khách quan mà nói thì nhân loại hôm nay đang đối diện với rất nhiều khủng hoảng và bế tắc trong cuộc sống, từ cuộc sống mưu sinh đến hạnh phúc gia đình, từ trong khát vọng tâm linh đến niềm tin bị đánh mất; xã hội thì tựa như một mớ bòng bong chẳng biết đâu là đường phải chọn, lòng người thì giả dối chẳng còn biết tin cậy vào ai, bệnh tật và chết chóc thì rình mò đe dọa….
Là người ki-tô, trước hết chúng ta hãy giúp cho những anh chị em ấy nhận biết Chúa Giêsu là đường dẫn đến nguồn chân thiện mỹ; kế đến là giúp cho những anh chị em ấy nhận biết Chúa Giêsu là sự thật, là người đáng tin cậy để họ có thể gởi gắm những ưu tư trăn trở và lo toan của cuộc đời; sau cùng là giúp cho những anh chị em ấy nhận biết Chúa Giêsu là sự sống đời đời để khi dối diện với ốm đau bệnh tật họ vững lòng cậy trông phó thác.
Tóm lại, mừng lễ Chúa Giêsu lên Trời hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta vững lòng tin tưởng vào mầu nhiệm cao cả này. đồng thời, xin cho mỗi người luôn biết ái mộ những sự trên Trời vốn là quê hương đích thực của người tín hữu, và biết giúp cho người khác nhận ra Chúa Giêsu  chính là nguồn ơn cứu độ đời đời.
Nguyện xin Mẹ Maria nguyện thay cầu giúp để mai sau chúng ta cũng được thưởng cùng Đức Mẹ trên nước Thiêng đàng. Amen.
Lm Antôn

SUY NIỆM 5: LỄ THIẾU NHI: ĐIỀU KIỆN LÊN TRỜI

Thiếu nhi chúng con thân mến,
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Chúa thăng thiên, hay còn gọi là lễ Chúa Giêsu về trời. Chúa Giêsu về với quê hương của Ngài và cũng là quê hương của mỗi chúng ta. Và cha nói nhỏ cho chúng con biết, Chúa Giêsu về trời để mở cánh cửa Thiên đàng cho cha con chúng mình.
Chắc chắn ai trong chúng con cũng muốn mai sau được lên Thiên đàng. Chúng con sẽ được như lòng mong ước, với một điều kiện, đó là hãy giới thiệu Chúa cho người khác. Đây chính là lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi Ngài về trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho mọi loài thọ tạo”.
Nhiều bạn hỏi cha là: Chúng con con nhỏ chút éc thì làm sao rao giảng tin mừng được hả cha? Cha khẳng định với chúng con là được. Chúng con tuy nhỏ nhưng có “võ”.
Câu chuyện sau đây chính là bằng chứng về tài năng nhí của chúng con.
Trong một buổi kiểm tra văn cuối học học kì II, cô giáo ra đề thi như sau: “Hãy tả về chân dung người bố của em”. Trường, một cậu học sinh lớp 7, là người Công Giáo không ngần ngại đặt bút và viết: “Tôi có một người bố. Ngài là một người rất vĩ đại. Ngài đã chịu hy sinh chết cho cả nhân loại. Tên bố tôi là Giêsu. Ngài có vóc người gầy gò, mái tóc dài nâu, mũi Ngài cao, hai mắt Ngài hiền từ nhân hậu. Đôi tay Ngài đã chịu nhiều đau đớn, đôi chân Ngài đã đi rất nhiều nơi…Ngài đã đi khắp nơi để rao truyền Phúc Âm, đôi chân Ngài đặt đến đâu thì nơi đó ngập tràn nguồn sống. Bàn tay Ngài làm những phép lạ. Những lời Ngài nói ra đem đến sự sống cho nhiều người.” 
Rồi cậu tiếp tục viết một cách say mê về người bố mang tên Giêsu ấy. Cuối bài thi, cậu kết luận: “Tôi nghĩ mỗi người trong các bạn đều nên biết đến bố của tôi, vì người này sẽ yêu thương, chăm sóc và che chở cho các bạn. Các bạn sẽ nhận sự cứu rỗi từ nơi Ngài. Tôi tin rằng, Chúa Giêsu sẽ yêu thương tôi suốt đời và Ngài sẽ luôn là một người bố vĩ đại trong các bạn”.
Tuy rằng bài thi ấy chỉ được điểm 5 từ cô giáo dạy văn nhưng lại được điểm 10 từ Chúa Giêsu và nhiều người khác.
Thật vậy, chẳng mấy chốc bài văn của cậu được mọi người chia sẻ trên các trang mạng xã hội. Người ta ca ngợi và tán dương chứng tá đức tin của cậu, và tôn phong cậu là một “nhà truyền giáo nhí” của năm 2018, vì nhờ bài văn của cậu mà nhiều người biết về Chúa Giêsu.
Thiếu nhi chúng con thân mến, phần lớn ai trong chúng con cũng có tài khoản Facebook đúng không? Chúng con hãy đăng nhập trang facebook cá nhân, và giới thiệu Chúa cho mọi người. Bản tin ấy có thể là một câu lời Chúa, một hình ảnh về Chúa Giêsu, Đức Mẹ hoặc các thánh, hay cũng có thể là một lời cầu nguyện chân thành của chúng con.
Như thế, chẳng mấy chốc chúng con cũng đạt được danh hiệu “nhà truyền giáo nhí” mà thôi, vì có thể chúng con chỉ nhận được một vài like từ bạn bè, nhưng chúng con nhận được cả triệu like từ Chúa Giêsu.
Nếu chúng con làm được những điều tương tự như thế là chúng con đang giới thiệu Chúa cho người khác, đang rao giảng Tin mừng theo lệnh truyền của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay; là chúng con đủ điều kiện để được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc Nước Trời với Ngài.
Cầu chúc chúng con thành công. Amen.
Lm. Antôn

SUY NIỆM 6: BÂY GIỜ CON VỀ CÙNG CHA.

Lễ Chúa Giêsu Về Trời thường cũng được gọi là Lễ Thăng Thiên, và được mừng vào ngày Thứ Năm sau Chúa Nhật VI Phục Sinh, đúng 40 ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại như Lời Thánh Kinh (Cv 1,3); tuy nhiên vì lý do mục vụ, để thuận tiện cho mọi tín hữu có thể đi dâng Thánh Lễ, nhiều nơi đã được phép chuyển mừng vào ngày Chúa Nhật tiếp theo (Chúa Nhật VII Phục Sinh).
Trong Thánh Lễ hôm nay, qua các Bài Đọc I (Cv 1, 1-11), Bài Đọc II (Ep 1, 17-23, hoặc Ep 4, 1-7, 11-13) và Bài Phúc Âm (Mc 16, 15-20), các Thánh Sử đều ghi lại việc Chúa Giêsu được “rước về Trời”, sau khi Ngài đã ‘sống lại và hiện ra với các Thánh Tông Đồ, an ủi, âng đỡ cùng giảng dạy thêm cho các Ngài ‘về Nước Trời’ trong vòng 40 ngày. Ngoài ra, trước khi được “Rước Về Trời”. Chúa Giêsu cũng hứa “vẫn ở lại với các Ngài mỗi ngày cho đến tận thế”, và sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống (Ga 14,16) trên các Ngài để thánh hóa và soi sáng cho các Ngài hiểu đầy đủ về mọi điều đã được ghi chép trong Thánh Kinh và những lời Chúa Giêsu đã giảng dạy (Ga 14,26); rồi Chúa Giêsu đã chúc lành cho các Ngài và truyền cho các Ngài “hãy ra đi khắp nơi làm chứng nhân cho Chúa, và rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người, mọi nơi.” (Mc 16,15-16).
Lễ Chúa Giêsu Về Trời là niềm vui mừng phấn khởi cho mọi người chúng ta, vì Chúa Giêsu đã chịu nạn, chịu chết để cứu chuộc chúng ta, nhưng Người đã sống lại và về trời vinh hiển để mở đường về trời cho chúng ta. Con đường sự sống đã được mở sẵn cho chúng ta để ai đi theo con đường đó thì tới sự sống muôn đời, vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Thày là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống… (Ga 14,6).
Sau khi Chúa Giêsu về Trời, và sau khi Chúa Thánh Thần đã hiện xuống thánh hóa các Tông Đồ, các Ngài đã hăng hái, nhiệt thành đi rao giảng Lời Chúa và thành lập Hội Thánh. Từ ngày đó, dù bị các thế lực thế gian ở mọi thời và mọi nơi bách hại như Chúa Giêsu đã báo trước (Ga 15,18-21), Giáo Hội đã không ngừng phát triển để đem Tin Mừng Tình Thương và Ơn Cứu Độ đến cho mọi người và mọi nơi, để những ai “tin thì được cứu rỗi” (20,31).
Ngày nay, đến lượt chúng ta là những tín hữu của Chúa, chúng ta cũng phải là những ‘tông đồ nhiệt thành’, có nhiệm vụ tiếp tục rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa đến mọi nơi trên trái đất bằng nhiều phương tiện khác nhau, nhất là bằng chính đời sống tín hữu gương mẫu của chúng ta. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tiếp tục sống như ‘những chứng nhân’ của Chúa (Cv 1,8) cho mọi người mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày: nơi gia đình, trong sở làm, xưởng thợ, ở thành thị cũng như chốn thôn quê.
Xin Chúa Giêsu Phục Sinh và đã về Trời vinh hiển chúc lành cho mọi người chúng ta, gia đình chúng ta, cho các công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, và cho mỗi tín hữu chúng ta luôn được nhiệt thành rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người.
Lm Anphong Trần Đức Phương

SUY NIỆM 7: HÃY RAO GIẢNG TIN MỪNG  

Đoạn Mc 16,9-20 không tìm thấy trong những thủ bản xưa nhất của Tin mừng Marcô. Có thể đây là phần được thêm sau nầy, trong đó tóm tắt những điều mà trong các Tin mừng khác nói đến Đấng Sống Lại. Phần thứ nhất (16,9-11) thuật việc Chúa hiện ra với bà Mađalêna (x. Ga 20,11-18). Phần thứ hai (16,12-13) kể tóm tắt chuyện hai môn đệ đi về làng Emmaus (x. Lc 24,13-35). Phần thứ ba (16,14-18) kể lại chuyện Chúa hiện ra cho nhóm mười một; Người trách họ cứng lòng tin và trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin mừng (x. Lc 24,36-43). Phần cuối cùng (16,19-20) ghi nhận vắn tắt việc Chúa lên trời (x. Lc 24,50-53; Tđcv 1,9-11).
Đoạn nầy không chắc chắn do Marcô viết ra; tuy nhiên nó được viết theo một truyền thống cổ xưa và được công nhận thuộc về Kinh thánh. Có thể phân chia đoạn 16,15-20 làm ba phần: 1- Mệnh lệnh rao giảng Tin mừng và những hành động quyền năng kèm theo (16,15-18); 2- Chúa Giêsu lên trời (16,19); Các tông đồ đi rao giảng và Chúa cùng hoạt động với họ (16,20).
Lần đầu tiên việc rao giảng Tin mừng được giao phó cách rõ ràng và như một mệnh lệnh cho các tông đồ để chu toàn. Ngay từ đầu, Marcô đã ghi nhận nhiều lần là Chúa Giêsu không mệt mỏi đi rao giảng khắp miền Galilê và những vùng lân cận của nó (1,14-15.39.45; 5,20). Khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Marcô ghi nhận là Người kêu họ đến với Người để có thể sai họ đi rao giảng (3,14); tuy nhiên, ông đã không nói là khi nào. Trong diễn từ nói đến những thử thách và bách hại các môn đệ sẽ chịu, Người tiên báo là qua đó Tin mừng sẽ được rao giảng cho mọi dân tộc (x. 13,10). Như thế, “Anh em hãy rao giảng Tin mừng” là mệnh lệnh trực tiếp và đầu tiên các tông đồ lãnh nhận sau khi Chúa Giêsu sống lại, và họ sẽ bắt đầu thực hiện nó cách công khai sau khi Người đã lên trời (16,15.20). Đây là thời điểm thích hợp nhất để làm việc đó, vì sứ vụ của Người trên trần gian chấm dứt khi Người lên trời; họ phải tiếp tục sứ vụ ấy của Người. “Tin mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (1,1) đã được loan báo trọn vẹn và đã thấm nhập họ không chỉ lời nói mà cả bản thân của Người. Rao giảng Tin mừng lần nầy sẽ được mở rộng cách phổ quát cho mọi người (16,15).
Những hành động quyền năng được hứa như xua trừ ma quỷ, nói được những ngôn ngữ mới, tiêu trừ những độc hại và chữa lành những bệnh tật là biểu trưng cho sự chiến thắng trên sự chết và tội lỗi (16,17-18). Người ban những quyền năng ấy cho tất cả những ai tin vào Người; tuy nhiên, không chỉ chừng ấy thôi, mà cả ơn cứu độ dứt khoát trong sự sống vĩnh cửu nữa.
Như việc sống lại do bởi Chúa Cha thực hiện (16,6), việc Chúa Giêsu được đưa lên trời cũng bởi Người. Được đưa lên trời là trở lại nơi Người đã từ đó mà đến trần gian. Chữ “trên trời” chỉ nơi Thiên Chúa hiện diện (1,10; 6,41; 7,34; 11,25). Lên trời là đi vào sự hiệp thông tuyệt hảo và vĩnh cửu với Cha của Người, trong đó Người được chia sẻ với Cha quyền năng và vinh quang. Thành ngữ “ngồi bên hữu” chỉ địa vị cao trọng và quyền hành lớn chỉ sau Thiên Chúa (14,62; 16,19; x. 10,37; 12,36; Tv 110,1). Sau cùng, các tông đồ đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng (16,20). Họ đã mở đầu một thời kỳ mới của Giáo hội. Thay vào lời hứa Chúa Giêsu sẽ ở cùng họ cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Marcô ghi nhận là Chúa cùng hoạt động và trợ giúp lời họ rao giảng bằng những dấu hiệu quyền năng (16,20).
Đang ở trong vinh quang và quyền năng với Chúa Cha, Chúa Giêsu vẫn luôn hoạt động liên lỉ với Giáo Hội để hoàn thành việc rao giảng Tin mừng của Thiên Chúa cho muôn dân.
Lm. Luis Gonzaga. Đặng Quang Tiến

SUY NIỆM 8: HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG

Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!
Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14:26; 16:12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2:4).
Đối với Ki-tô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Ki-tô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.
Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giê-su, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Ki-tô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).
Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ – chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ – chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ – sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ – sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Ki-tô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Ki-tô Giê-su, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Tê-rê-xa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’
Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.
Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thươngXin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để – vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương – con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. A-men.

Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SBD

SUY NIỆM 9:

Hiệp mừng lễ Đức Giêsu lên trời, Giáo hội cất cao lời tuyên xưng rằng, Con Thiên Chúa, sau khi vâng lời Chúa Cha đi vào lịch sử nhân loại, cứu chuộc con người bằng chính sự sống của Ngài, đã chết và đã sống lại. Sứ mạng của Người Con đó đã hoàn tất, nay Chúa Cha đưa Ngài về trời để trọng thưởng, đặt Ngài vào ngai vàng để xét xử nhân loại. Sứ mạng của người tôi tớ đã hoàn tất trong sự vâng phục, nay được rước về trời trong vinh quang, cũng là điểm đến cho tất cả tín hữu Kitô, trong ơn gọi chứng nhân tin mừng phục sinh, hãy cố gắng chu toàn trọng trách đó, mai sau sẽ được trọng thưởng. Lễ Chúa lên trời cũng là niềm hy vọng cho con cái Thiên Chúa đang lữ hành trên trần gian, hãy hướng về trời, quê hương của mình, để cố gắng hy sinh và đón nhận thánh giá cuộc đời trong niềm tín thác và yêu mến Thiên Chúa.
Sách Tông đồ Công vụ mô tả cho chúng ta câu chuyện Đức Giêsu được cất nhắc lên trời trong vinh quang của triều thần. Tất cả như một phép mầu, như một câu chuyện thần thoại. Thiên Chúa đã chấp nhận ngôn ngữ của con người, chấp nhận luôn những cách diễn đạt của con người về Ngài, do đó, vinh quang của mầu nhiệm lên trời, diễn tả sự long trọng của người chiến thắng, người được Thiên Chúa trọng thưởng trong uy quyền của Ngài: “Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?” Người bảo họ rằng: “Ðâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông”. Nỗi buồn và niềm vui đang là cảm xúc lẫn lộn của các Tông đồ khi chứng kiến sự việc đó, chắc họ sẽ vui hơn khi hiểu được phần nào câu chuyện Thầy mình được cất nhắc lên trời. Thầy đã chu toàn bổn phận của người con, luôn vâng lời và thi hành ý muốn của Cha, nay Thầy được trọng thưởng. Phần tôi cũng sẽ được vậy, nếu hôm nay, bổn phận trong ơn gọi, trọng trách trong niềm tin và lời sai đi trong niềm vui phục sinh, được chu toàn trong tình mến và sự quảng đại cộng tác.
Lời khuyên bảo của thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, gởi tới con cái của ngài trong thành Ê-phê-sô, tràn đầy hy vọng của mầu nhiệm thăng thiên. Là những người dân ngoại trở về với Đấng phục sinh, cộng đoàn Giáo hội này đã sống tình huynh đệ rất tuyệt vời, bởi họ tin vào sự hiện diện của Chúa phục sinh. Niềm tin đó còn mong manh, bởi thế, thánh Tông đồ đã mời họ hướng về niềm vui trời cao để sống ơn gọi của bản thân thật tròn đầy như lòng Chúa ước mong: “Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau”. Khởi đi từ một con người đã sống, đã đi lại trên những nẻo đường của thế giới, thánh Phaolô hướng con cái về một Đức Giêsu phục sinh được cất nhắc lên trời cao, như một phần thưởng dành cho người đầy tớ sau khi chu toàn bổn phận. Vì thế, hãy hướng về điểm đến cuối cùng của cuộc đời để sống có ích, sống có ý nghĩa và sống cùng, sống với, sống cho tha nhân, cho Thiên Chúa giữa đời. Tất cả cho bình an cuộc sống hôm nay và hạnh phúc Nước Trời ngày mai.
Câu chuyện Đức Giêsu lên trời được tác giả thánh tường thuật lại theo quan niệm của người thời đó về Trời – Đất – Địa ngục, ba chỗ đứng khác nhau và mỗi nơi có ý nghĩa nhất định của nó. Đức Giêsu lên trời từ mặt đất như là một người chiến thắng trở về trong vinh quang. Quả thực Ngài đã chiến thắng, chiến thắng tội lỗi, sự chết. Trời là chỗ ở của thần thánh và các thiên thần, vì thế, ai được đưa lên trời là được bước vào thế giới thần linh và sống trong hạnh phúc của thần linh: “Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Ngồi bên hữu là người được thưởng công, là người chiến thắng theo quan niệm của người thời ấy, Đức Giêsu được Chúa Cha đặt vào vị thế của người chiến thắng. Để có được niềm vui đó, người môn đệ hôm nay sẽ tiếp tục thao thức của Đức Giêsu trước khi được đưa lên trời: “Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Và từ đây, các Tông đồ lên đường thi hành sứ mệnh đặc biệt mà Thầy Chí Thánh đã trối lại. Nơi Đức Giêsu được đặt ngồi bên hữu cũng là đích điểm cho người môn đệ hướng về, khi họ còn là người lữ hành trên thế gian. Các ngài đã vượt ra khỏi ranh giới của quê hương, đất nước và đi đến tận cùng trái đất, để tin vui cứu độ được trao tận tay cho mọi dân, mọi nước. Công việc đó hôm nay vẫn còn dang dở và chúng ta lại tiếp nối lên đường.
Giới thiệu ơn cứu độ cho thế giới là công việc của người môn đệ. Ngày xưa các Tông đồ không có điều kiện và phương tiện như hôm nay, vì thế, các ngài đã vất vả lặn lội đi tới mọi nơi, phải đối diện với bao hiểm nguy đến từ thiên nhiên, từ môi trường, từ công ăn việc làm, từ văn hóa vùng miền, từ ngôn ngữ và từ quan niệm sống cũng như tâm tình tôn giáo của mỗi dân tộc. khi cuộc đời các ngài tạm dừng bởi sự hữu hạn của kiếp người, bao người môn đệ khác lại tiếp tục và đến hôm nay, mỗi tín hữu Kitô sẽ tiếp nối con đường và sứ mạng đó. Ngày nay, Giáo hội đang khuyến khích người tín hữu hãy sử dụng các phương tiện, thiết bị và điều kiện sống của mỗi người, để loan báo Tin Mừng phục sinh của Đức Giêsu. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, của truyền thông và đặc biệt là khoảng cách địa lý đang được thu hẹp dần, giúp cho việc loan báo Tin Mừng được thuận tiện và hiệu quả cao.
Trước những ưu việt đến từ cuộc sống, người tín hữu sẽ nói gì với tha nhân, sẽ nói gì cho họ biết về Thiên Chúa tình yêu, chắc hẳn yếu tố đầu tiên đòi hỏi người tín hữu là phải có sự hiện diện của Thiên Chúa trong con người và cuộc đời của mình. Có thực sự gắn bó với Thiên Chúa, người tín hữu mới cảm nghiệm được chiều sâu của tình yêu tự hiến, mới gắn bó được với Thiên Chúa trong chiều sâu thiêng liêng, rồi từ đây, họ có đủ dưỡng chất cho đời sống tinh thần, có đủ nội lực để can đảm nói cho thế giới biết về một Thiên Chúa làm người. Biết rằng sẽ nói với thế giới về Thiên Chúa, người môn đệ sẽ dùng ngôn ngữ nào để nói, ngôn ngữ cử điệu, ngôn ngữ hình thức hay ngôn ngữ thinh lặng? Mỗi người tín hữu sẽ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và đặt vào chỗ đứng thích hợp để loan truyền tin vui đó, dù được Ngài hướng dẫn, nhưng sự tự do cộng tác của con người luôn được tôn trọng, bởi thế, chúng ta sẽ sử dụng ngôn ngữ nào để nói với tha nhân về Thiên Chúa thật hiệu quả và có giá trị nội tâm hơn, đó là sự sáng tạo và cố gắng của mỗi người trong từng hoàn cảnh và ơn gọi của mình.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã được nâng lên trời cao, xin đưa chúng con trở lại với cuộc sống, với ơn gọi và công việc của mỗi người, để chúng con thông truyền niềm vui cứu độ và hạnh phúc Nước Trời cho tha nhân. Chúa về trời, đó là ngôi nhà hạnh phúc, là chốn bình an đích thực, xin giúp chúng con luôn hướng về ngôi nhà của Thiên Chúa khi sống ơn gọi của mình, đừng cúi xuống tìm kiếm lạc thú của thế gian, mà đánh mất niềm vui Nước Trời. Amen.
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh

SUY NIỆM 10:


Truyền thống và Phụng Vụ Giáo Hội Công Giáo mừng lễ Chúa Giêsu thăng thiên sau 40 ngày kể từ ngày Người phục sinh (vì nhu cầu mục vụ, tại Việt Nam, các Giáo phận phía Nam đã mừng lễ Chúa Thăng Thiên vào Chúa Nhật VII Phục Sinh, khác với chính ngày là thứ năm tuần VI Phục Sinh).
Con số 40 là con số quan trọng trong Thánh Kinh, gợi nhớ con số 40 năm trong sa mạc của dân Israel trước khi vào Đất Hứa (biểu trưng cuộc lữ hành của Dân Mới của Thiên Chúa bước vào Nước Trời).
Đặc biệt, con số 40 có tính biểu trưng này, khởi hứng từ thực tại 40 tuần lễ đứa trẻ nằm trong bụng mẹ, gợi nhớ thời gian thai sinh, thời gian thử thách, cũng như thời gian tăng trưởng và chín muồi; đó là thời gian đợi chờ của một cuộc sinh nở mới.
40 ngày trong hoang địa, Chúa Giêsu dọn mình chuẩn bị sứ mạng cứu thế. Cũng 40 ngày sau khi Chúa phục sinh, các Tông Đồ và môn đệ cũng dọn mình sẵn sàng ra đi làm chứng cho Thầy Giêsu.
 
* Lệnh truyền rao giảng Tin Mừng.
Rao giảng Tin Mừng cho ai là giúp người ấy đào sâu những kinh nghiệm bản thân đã trải qua trong quá khứ, cho đến ngày người ấy nhận ra nơi Chúa Kitô, trong cái chết và sự sống lại của Người, là chân lý làm cho cuộc đời họ rực sáng (x.GKPV).
Trước khi về trời, lời trối cuối cùng của Chúa Giêsu là: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà rao giảng Tin Mừng cho mọi lời thọ tạo”.
  • Hãy đi: Đây là một mệnh lệnh mang tính trách nhiệm, chứ không phải một lời khuyên. Vì thế, đã là môn đệ Chúa, thì mọi người đều mang trong mình trách nhiệm truyền giáo. 
  • Đi: Nghĩa là lên đường, đến với nơi mình làm việc, nơi mình sinh sống, nơi mình tham gia các sinh hoạt… Truyền giáo là một hành động cụ thể qua lời nói và đời sống chứng nhân, chứ không phải “đạo tại tâm”. 
  • Khắp tứ phương thiên hạ: Nghĩa là, việc rao giảng và làm chứng cho Chúa không hệ tại ở một không gian nhất định, nhưng bất kỳ nơi nào mình đến và trong hoàn cảnh nào.
  • Rao giảng Tin Mừng: Rao giảng Tin Mừng là rao giảng “Lời Chúa”, việc Chúa, và làm chứng cho Chúa, chứ không phải rao giảng “lời hay ý đẹp của mình bịa ra”, làm công việc của mình hoặc ngầm ý vinh danh mình.
  • Cho mọi loài thọ tạo: Lệnh truyền không giới hạn mình phải làm chứng cho Chúa trước một tôn giáo nào hay một tầng lớp xã hội nào, mà là cho bất cứ ai mình gặp gỡ.
 
* Điều kiện để được cứu độ.
Tiếp theo lệnh truyền là lời khằng định của Chúa Giêsu: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án”.
  • Điều kiện bắt buộc để được cứu độ là tin và chịu phép rửa. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa. Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). 
  • Cần phân biệt giữa việc được rao giảng mà không tin và chịu phép rửa, khác hẳn với việc không được nghe rao giảng. Ơn cứu độ trước việc người ta cứng lòng không tin khác với việc người ta lầm lạc không được nghe biết Tin Mừng. Vì thế, việc truyền giáo luôn là một trách nhiệm khẩn thiết của mỗi chúng ta.
 
Cũng cần lưu ý, những phép lạ chỉ là “kèm theo”, chỉ đóng vai trò phụ trong việc minh hoạ cho Lời Rao Giảng, nâng đỡ niềm tin người đón nhận và xoa dịu bớt phần nào nỗi đau khổ của kiếp nhân sinh; Lời Rao Giảng mới đóng vai trò chính trong niềm tin và ơn cứu độ.
Chính vì thế, mà chính Chúa Giêsu cũng nhiều lần từ chối làm phép lạ, vì người ta đòi hỏi Người. Niềm tin mà chỉ dựa trên phép lạ thì không còn là niềm tin nữa.
 
Sự kiện Chúa Giêsu lên trời là một sự hiện diện theo cách thế mới. Nếu khi ở trong thân xác phàm nhân, Chúa Giêsu như bị giới hạn về sự hiện diện; thì nay, trong thân xác Phục Sinh, người hiện diện mọi nơi mọi lúc với các môn đệ, mà không còn bị lệ thuộc không gian hay thời gian vật lý nữa. Sự hiện diện của Chúa Giêsu với chúng ta sau khi Người lên trời, biểu trưng nơi cõi trời cao xa có thể quan sát thấy mọi đường đi nước bước của các chứng nhân, để đồng hành, hướng dẫn, an ủi, khích lệ và ban ơn phúc.
 
Tóm lại, mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, Kitô hữu được mời gọi hướng lòng lên với Chúa, hướng vọng về cõi trời là cùng đích của đời sống đạo, tin tưởng và hy vọng mai ngày được trở về quê trời là quê hương đích thực và vĩnh cửu bên Đấng họ yêu mến, là Đức Giêsu Kitô. Nhưng ai muốn đạt tới quê trời vinh phúc phải ghi nhớ và sống lệnh truyền của Chúa qua bài Tin Mừng hôm nay là: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”
 
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lên trời vinh hiển sau khi đã vượt qua khổ ải trần gian. Chúa đã lên trời để dọn chỗ cho chúng con mai ngày. Xin cho chúng con luôn biết hướng lòng lên những thực tại trên trời, để can đảm vượt qua những khổ ải dương gian, trung thành với lề luật Chúa trong đời sống đức tin và bác ái, hầu mai ngày chúng còn cũng được về quê trời vinh hiển với Chúa. Amen.
Hiền Lâm

SUY NIỆM 11: SỨ VỤ LÊN ĐƯỜNG

Hôm nay cộng đoàn chúng ta họp nhau trong ngôi thánh đường này để mừng trọng thể lễ Chúa Thăng Thiên. Đây cũng là ngày Giáo Hội dành làm "Ngày truyền thông thế giới". Khi chọn ngày lễ này làm ngày truyền thông, Giáo Hội muốn nhắc nhở từng người chúng ta ý thức hơn đến việc loan truyền cho mọi người Tin Mừng Phục Sinh, một Tin Mừng vĩ đại nhất qua mọi thời đại và có khả năng biến đổi cuộc sống của những ai tin nhận.
Không chỉ hôm nay, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy trong suốt những tuần lễ vừa qua, dưới nhiều hình thức khác nhau, phụng vụ lời Chúa cũng đã luôn mời gọi chúng ta phải lên đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô.

Ngay trong Chúa Nhật Phục Sinh, Maria Mađalêna đã là người đầu tiên loan báo cho hai môn đệ Phêrô và Gioan về sự kiện ngôi mộ trống, dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Rồi tám ngày sau, vào Chúa Nhật II Phục Sinh, trong lần hiện ra với các tông đồ có cả Tôma, chính Đấng Phục Sinh đã truyền cho các tông đồ "
 Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con" (Ga 20, 21). Kế đến, trong Chúa Nhật III, Tin Mừng Luca còn thuật lại cho chúng ta việc Đấng Phục Sinh hiện đến với các tông đồ khi đó đang tụ họp cùng với hai môn đệ vừa từ làng Emmaus trở về. Và cả lần này, Đấng Phục Sinh cũng giao cho các ông sứ mạng "nhân danh Người rao giảng sự thống hối... bắt đầu từ Giêrusalem" (Lc 24, 47). Ngài còn nhấn mạnh: "Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy" (Lc 24, 48). Còn trong Chúa Nhật IV, chúng ta đọc được tâm sự của Đức Kitô, Vị Mục Tử nhân lành: "Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn" (Ga 10, 16a). Được gia nhập vào đoàn chiên duy nhất của Đấng Phục Sinh như cành nho liên kết với thân nho, từng người chúng ta cũng được mời gọi sinh hoa trái bằng đời sống bác ái yêu thương. Nhờ đó, ngày càng có nhiều người tin nhận Đấng Phục Sinh. Đó chính là giáo huấn của lời Chúa trong Chúa Nhật V Phục Sinh. Còn trong Chúa Nhật vừa qua, Đức Kitô xác định rõ với từng người chúng ta: "Chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái" (Ga 15, 16). Và hôm nay, trước khi chấm dứt giai đoạn hiện diện hữu hình của mình với các môn đệ, một lần nữa, Đấng Phục Sinh đã giao cho các tông đồ sứ mạng: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật".

Như thế, loan báo Tin Mừng Phục Sinh không còn là một điều mà chúng ta muốn làm hay không tuỳ thích, nhưng là một sứ mạng, một bổn phận bắt buộc cho tất cả những ai muốn xưng mình là kitô hữu. Ý thức điều đó, Công đồng Vatican II, trong Sắc lệnh về truyền giáo, số 2 đã nói: " Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo". Giáo Hội phải loan truyền cho mọi người về Tin Mừng Phục Sinh, vì từ đây, Đấng Phục Sinh không còn hiện diện hữu hình với chúng ta nữa. Chúa lên trời, không phải là Ngài không còn hiện diện với con người nữa, nhưng là hiện diện với một cách thức mới, hiệu quả hơn, như lời Ngài đã hứa: "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất". Lịch sử Giáo Hội đang bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn mở ra cho muôn dân. Đó cũng là một trong những lý do khiến Giáo Hội chọn ngày lễ hôm nay làm ngày "Truyền thông thế giới". Từ đây, Giáo Hội có nhiệm vụ truyền thông cho thế giới về Tin Mừng Phục Sinh, Tin Mừng của Tình yêu và Sự sống, Tin Mừng của niềm Hy vọng.
Chúa lên trời, Ngài không trực tiếp hoạt động nữa nhưng trao cho các tông đồ và từng người chúng ta tiếp tục sứ mạng đem ơn cứu độ của Ngài cho muôn dân. Ngài muốn mượn đôi tay, đôi chân, và cả con tim của chúng ta để thông truyền Tin Mừng đó cho mọi người ngay trong chính môi trường chúng ta đang sống. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại, sau khi Đức Giêsu Phục Sinh về trời, đang lúc các môn đệ vẫn còn ngước mắt lên trời, thì thiên sứ đã nhắc các ông: " Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn trời...". Các tông đồ không được phép đứng đó mãi nhìn trời. Các ông phải trở về với cuộc sống hiện tại để làm chứng cho Đấng Phục Sinh.
Cũng thế, là một kitô hữu, chúng ta không chỉ đọc kinh, tham dự các nghi lễ phụng vụ ở nhà thờ, chúng ta phải trở về nhà, đối diện với mọi vất vả trong cuộc sống thường ngày như những người khác. Các bậc phụ huynh vẫn phải vất vả đi biển, ngược xuôi buôn bán, các em nhỏ cũng phải bận rộn với việc học hành các kiến thức văn hoá, xã hội... tắt một lời, trước mắt mọi người, mỗi người chúng ta vẫn phải sinh hoạt, lo toan mọi điều trong cuộc sống như bất cứ một người nào. Tuy nhiên, ngay giữa cuộc sống đó, chúng ta vẫn có thể thông truyền Tin Mừng Phục Sinh, loan báo cho mọi người biết rằng sau cuộc sống hiện tại này, còn có một quê hương vĩnh cửu trên trời, nếu chúng ta giữ mình không gian dối, lừa đảo, không tham lam bất chính, luôn chung thuỷ trong đời sống gia đình.
Chúng ta không được phép chỉ nhìn trời, nhưng phải nhìn đến những người đang sống quanh ta, đó là người chồng, người vợ, là cha mẹ, con cái, là anh chị em và cả những người hàng xóm, láng giềng, những người hợp ý với chúng ta lẫn những người làm chúng ta khó chịu. Nếu trong một gia đình Công Giáo luôn trên thuận dưới hoà, anh chị em luôn biết tha thứ, đùm bọc yêu thương nhau. Nhất là nếu chúng ta luôn biết quan tâm chia sẻ, nâng đỡ những người hàng xóm, không phân biệt lương giáo những lúc " tối lửa, tắt đèn", thì tôi thiết nghĩ, đó là cách tốt nhất để chúng ta thông truyền cho mọi người về một Tình yêu phổ quát của Đấng Phục Sinh, Đấng đã chết và sống lại cho tất cả chúng ta.
Để sống được như vậy không phải là điều dễ dàng. Với kinh nghiệm bản thân của mình, chắc hẳn mỗi người chúng ta cũng có cùng một cảm nghiệm với thánh Phaolô: " Điều lành tôi muốn tôi lại không làm, còn điều dữ tôi không muốn, tôi lại làm" (Rm 7, 20). Những điều đối với chúng ta là không thể, thì đối với Thiên Chúa lại là có thể. Do đó, mỗi người chúng ta hãy hoạt động trong sức mạnh của Đấng Phục Sinh và dưới tác động của Thánh Thần. Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã nhắc bảo chúng ta hãy luôn cậy trông vào ơn Chúa: "Xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi... và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta".
Lòng trông cậy của chúng ta không phải là một sự trông cậy viễn vông, nhưng dựa vào chính lời hứa của Đấng Phục Sinh trước lúc về trời: " Hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa... Phần các con, ..., các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần... Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con". Lời hứa này đã được chứng thực qua hoạt động rao giảng của các tông đồ thuở ban đầu. Thánh sử Marcô thuật lại: "Các ông đi giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo".
Tóm lại, chúng ta có thể chu toàn sứ mạng thông truyền Tin Mừng bằng chính đời sống công chính, yêu thương, nhường nhịn, tha thứ cho dù chỉ là một câu nói và một tấm lòng mở rộng sẵn sàng cảm thông của chúng ta. Chính đời sống đó sẽ là một dấu lạ cho mọi người nhận ra rằng có một Thiên Chúa đang ở với chúng ta. Chớ gì nhờ sức mạnh của Thánh Thể nâng đỡ, từng người, từng gia đình và cả cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ trở thành một lời chứng hùng hồn cho Tin Mừng yêu thương và hy vọng của Đấng Phục Sinh. Amen.
Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây