THỨ BẢY NGÀY 25/1 THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI - LỄ KÍNH Mc 16,15-18

Thứ năm - 23/01/2025 19:39
THỨ BẢY NGÀY 25/1
THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI - LỄ KÍNH
Mc 16,15-18

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô.
15 Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo.
16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.
17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.
18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”

SUY NIỆM:

Sứ điệp: Mỗi người môn đệ đều được Chúa Giêsu Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Nhưng trước hết phải hoán cải theo gương thánh Phaolô tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thường làm con ngạc nhiên ngỡ ngàng. Mỗi trang Tin Mừng đều đưa con đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Người ta đánh mất sự ngạc nhiên khi quen coi thường những điều nghiêm chỉnh. Thực sự con cảm thấy ngỡ ngàng và thật bất ngờ khi con được Chúa sai đi làm sứ giả Tin Mừng cho Chúa. Lạy Chúa, thật thế sao ? Con là một kẻ tội lỗi, tầm thường, một kẻ tài trí kém cỏi, một kẻ nhiều tính xấu, nhiều khuyết điểm, lại được Chúa nhờ cậy và giao trọng trách sao ? Lạy Chúa, Chúa có lầm chăng ?
Con hỏi Chúa, nhưng câu trả lời đã có. Con biết không phải Chúa lầm, nhưng Chúa thương con và tín nhiệm con. Đối với Chúa, không ai là quá xấu đến độ phải loại bỏ. Chúa muốn mọi người làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa, bởi vì dù chúng con có tội lỗi yếu hèn đến đâu, ân sủng và tình yêu của Chúa vẫn mạnh hơn tội lỗi và yếu hèn của chúng con. Không ai ngờ thánh Phaolô, kẻ bách hại đạo Chúa, lại trở nên vị tông đồ thừa sai số một của Hội Thánh. Không ai ngờ thánh Phêrô, kẻ chối Chúa, lại là thủ lãnh tiên khởi của Hội Thánh. Lạy Chúa, chính ơn Chúa đã làm cho các ngài hoán cải và hiến thân trọn vẹn cho Chúa.
Phần con, con cũng không ngờ, con chỉ biết cảm tạ tình thương Chúa dành cho con. Xin Chúa giúp con dám lãnh trách nhiệm. Xin giúp con không ngừng hoán cải mỗi ngày để con có thể theo Chúa sát hơn và hiến thân nhiều hơn. Con đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn thánh Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy đi rao giảng Tin mừng khắp thế gian”.

TGM Giuse Nguyễn Năng

 

SUY NIỆM: CÚ NGÃ NGỰA LỊCH SỬ

Đọc lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức,thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Được ơn trở lại qua cú ngã ngựa trên đường Đamat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô,Tông Đồ dân ngoại. Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca.Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Cuộc sống buôn ba vì Nước Trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân,bắt bớ, đói khát,trần truồng, nguy hiểm,gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống,dù thiên thần hay thiên phủ,dù hiện tại hay tương lai,hay bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác,không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng ta ” (Rm 8,35-39).
Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã viết rằng: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hylạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Nhưng tại sao Giáo Hội không chọn trong số những hình ảnh đẹp ấy, mà lại lấy hình ảnh ngã ngựa để đem mừng kính trong một ngày lễ? Thưa vì đó là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời ngài ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa mà Giáo hội mừng kính hôm nay.
1. Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
– Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi “tại sao?” đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là “Phaolô” đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
– Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận “tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi”
– Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do Thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do Thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
– Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
– Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: “Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi”.
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa nhật, tổng GP sài gòn, tháng 01.2008).
2. Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông.Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi,Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô.Từ đó trở đi,chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì “Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó,tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô.Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ,là bất lợi cả,vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô,Chúa tôi.Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô,và được thuộc về Ngài,không có sự sông chính của riêng tôi,sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô …( Pl 3,7-9).Từ đó trở đi,Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất,sự bình đẳng,tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: “vì anh em,phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô,thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp;không còn nô lệ hay tự do;không còn nam hay nữ;vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gal 3,27-28).Vì Đức Kitô là “tất cả mọi sự và trong mọi người” ( Col 3,11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô.Biết mình đã tin vào ai,Phaolô đã sung sướng sống nghèo,lấy việc lao động mà đổi miếng ăn,không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cor 9,3-18; 2 Cor11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô.Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những “… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết,năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một,ba lần bị đánh đòn,một lần bị ném đá,ba lần bị đắm tàu,một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi “phải thực hiện nhiều cuộc hành trình,gặp bao nguy hiểm trên sông,nguy hiểm do trộm cướp,nguy hiểm do đồng bào,nguy hiểm vì dân ngoại,nguy hiểm ở thành phố,trong sa mạc,ngoài biển khơi,nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc,thường phải thức đêm,bị đói khát,nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” ( 2 Cor 11, 23-27).Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê,người môn đệ có khi không khỏi nao núng:” anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta,cũng đừng hổ thẹn vì tôi,là kẻ bị tù vì Ngài”. Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai …(2 Tim 1,8-12).Vì đức Kitô “tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi,nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích” ( 2Tim 2,9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình ” Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2 Cor 12,9).Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy “chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn;lâm bĩ nhưng không mạt lộ;bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt”( 2Cor 4,8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng”( 1Cor 5,14)..Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài ” tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa,là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”( Gal 2,20).
3. Những cú “ngã ngựa” trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô.Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (x. 2 Tm 4,6-8; Rm 8,18-19.32.33.38.39)
Nhìn vào biến cố “ngã ngựa” của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú “ngã ngựa”. Có những cú “ngã ngựa” trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú “ngã ngựa” trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú “ngã ngựa” trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú “ngã ngựa” trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe…
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn “ngã ngựa” chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn “ngã ngựa” như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam – Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. “Tội hồng phúc” là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú “ngã ngựa” của Thánh Phaolô hôm nay là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu “ngã ngựa” là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM: HÃY “TRỞ LẠI” VÀ LÀM LẠI CHÍNH MÌNH
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Phaolô Tông đồ trở lại. Vậy anh chị am hiểu như thế nào về sự trở lại của Thánh Phaolô? Đó có phải là sự chuyển đổi từ tôn giáo này sang tôn giáo khác, như kiểu nói “trở lại đạo” mà chúng ta thường nghe hay không? Thưa, không! Bởi vì lúc đó Phaolô không hề coi Kitô giáo là một tôn giáo mới, mà chỉ là một bè rối mà thôi.
Thế thì đó có phải là sự trở lại của một người từng có đời sống bê bối, nay tìm được đường ngay nẻo chính hay không? Thưa, cũng không! Bởi vì Phaolô vốn là một tín hữu Do Thái rất sùng đạo và công chính trong việc giữ luật, đến nỗi không ai chê trách được điều gì.
Vậy sự trở lại của Thánh Phaolô nghĩa là gì?
Trước hết, đó là sự trở lại để nhận ra Đức Kitô là trung tâm của đời mình. Có thể nói, ơn gọi của Thánh Phaolô gắn liền với biến cố ngã ngựa trên đường Đamas, mà chúng ta vừa nghe lại trong bài đọc I.
Lúc bấy giờ, giáo lý mới lạ của các kitô hữu tiên khởi về Đức Kitô chịu đóng đinh và đã sống lại, bị Thánh Phaolô coi như là một “cái gai” trong mắt mình. Vì ông nghĩ rằng, họ đang phá đổ những truyền thống mà ông đang nhiệt thành tin tưởng và bảo vệ. Vì thế, không lạ gì khi ông ra sức hăng say bắt bớ các kitô hữu, và coi đó là cách chứng tỏ lòng khát khao phục vụ Thiên Chúa (Cv 22,3-4). Ngờ đâu, qua biến cố Đamas, Chúa đã cắt đứt ngay hàng chỉ khi Phaolô đang mải dệt đời mình (x.Is 38,12). Biến cố này giúp ông nhận ra rằng, những vất vả lâu nay của ông chỉ như là “Dã tràng xe cát biển Đông”.
Từ sau khi gặp được Đức Kitô, Thánh Phaolô đã xoay mình 180 độ, từ một người bắt Đạo trở thành một người của Đạo. Bởi vì, Thánh nhân đã nhận ra Chúa Giêsu mới là trung tâm của đời mình: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1,21).
Thứ đến, đó là sự trở lại để nhận ra Đức Kitô mới chính là người mà mình cần rao giảng. Kể từ lúc ấy, thánh Phaolô đã không còn dùng lời lẽ của một “kẻ nói lộng ngôn” (1Tm 1,13) như trước nữa, nhưng giờ đây, nội dung của lời rao giảng đã quy về “Đức Kitô chịu đóng đinh” (1Cr1, 23). Ngài đã trở lại để trở nên “lợi khí” (Cv 9,14) hầu đem Chúa đến cho dân ngoại.
Thưa anh chị em, nếu xét theo nghĩa này, thì không riêng gì Thánh Phaolô, mà ngay cả chúng ta cũng cần phải “trở lại”.  Vậy trở lại để làm gì?
Thứ nhất, trở lại để xác tín rằng, Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống của đời tôi. Ngài vượt xa những giá trị vật chất ở đời này. Chỉ 1 mình Ngài mới có thể mang lại cho tôi sự sống đời đời. Hãy tuyên xưng 1 cách chắn chắn như thế thưa anh chị em!
Mang danh là người Kitô hữu mà lại không gắn bó cuộc đời với Chúa Kitô, thì chỉ là “hữu danh mà vô thực”. Tự hào là đạo gốc đạo dòng, sáng lễ chiều kinh; mà không tuân giữ 10 điều răn của Chúa, thì chỉ là “thùng rỗng kêu to” mà thôi. Hãy trở lại, để sống xứng đáng là người Kitô hữu.
Thứ hai, trở lại để sống và thực hiện lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loại thụ tạo”.
Đây là bổn phận chứ không phải chỉ là lời mời gọi. Bổn phận thì buộc phải làm. Hãy truyền giáo và trở nên những chứng nhân của Chúa Kitô ngay trong cuộc sống thường ngày của mỗi người. Nếu ai đó không truyền giáo được, nếu không thể làm chứng nhân cho Chúa được; thì đừng làm gương mù gương xấu cho những người xung quanh. Đừng để mình trở thành “con sâu làm rầu nồi canh”, khiến người khác hiểu xấu và hiểu sai về đạo Công Giáo, hiểu xấu và hiểu sai về Giáo Hội của Chúa Kitô. Hãy trở lại để sống xứng đáng là người con cái Chúa.
Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Phaolô Tông đồ, xin cho chúng ta cũng biết khiêm tốn nhìn nhận thực tạị đức tin của mình, hầu mỗi người người cũng có một cuộc “trở lại” đầy can đảm như Thánh Phaolô, và cùng với Thánh nhân tuyên xưng rằng: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô đang sống trong tôi”. Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM: XIN HỢP NHẤT CHÚNG CON NÊN MỘT TRONG TÌNH YÊU CHÚA


Nói đến thánh Phao-lô là nói đến mầu nhiệm ơn gọi tông đồ cũng như sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa trên cuộc đời sứ vụ của ông.
Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một chàng có tên gọi là Sao-lô, ở Tac-xô, là người Do thái, trí thức, có thể nói ông là người đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Ga-ma-li-ên ở Giê-ru-sa-lem, nhiệt thành đến nỗi, tham gia vào vụ giết Tê-pha-nô và rong ruổi mọi đường Đa-mát truy lùng các Kitô hữu.
Nói đến Phao-lô là nói đến sự cải đạo của ông
Đối với Phao-lô, con đường Damas là con đường thiên mệnh, con đường của Ý Trời. Con đường ấy đã thay đổi con người và cuộc đời của Phao-lô 180 độ. Và con đường đó cũng đã thay đổi hoàn toàn chiều hướng của lịch sử nhân loại.
Trong ánh sáng huy hoàng, Chúa Ki-tô phục sinh đã ngỏ lời và đối thoại với Sao-lô. Thần Khí của Đấng Phục sinh đã tác động và thay đổi hoàn toàn con người của ông. Ánh sáng ấy làm cho Sao-lô mù mắt, diễn tả sự mù quáng của ông trước việc bắt bớ các Ki-tô hữu. Sự mù lòa còn tượng trưng cho sự “vô tri”: Sao-lô không thấy Thiên Chúa, không biết Thiên Chúa, mà cứ tưởng như mình biết. 
Chúa Ki-tô Phục sinh muốn nhờ Giáo hội, qua Phép rửa, giải thoát Sao-lô khỏi sự “u mê lầm lạc”, vô tri. Phao-lô đã được thấy lại nhờ ánh sáng của Chúa qua Phép rửa, bấy giờ mới nhận biết Đức Ki-tô và khám phá ra Thiên Chúa, chính là Cha của Đức Giê-su Ki-tô. Phao-lô ngã xuống đất và suốt ba ngày không nhìn thấy, không ăn, không uống, giống như người “chết rồi mới sống lại với Chúa”. Sao-lô được thông phần cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su, được Chúa Cha mạc khải cho biết mầu nhiệm tử nạn Phục sinh của Chúa Giê-su. Từ đó trở nên “chứng nhân” được sai đi loan báo Tin Mừng Phục sinh cho các dân ngoại. 
Rõ ràng là Ý Trời, Trời đã can thiệp vào cuộc đời của Sao-lô bằng tình yêu đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã nói qua miệng ông Kha-na-ni-a, và Phao-lô sau này lập đi lập lại nhiều lần. Thiên Chúa đã tuyển chọn Sao-lô một người duy nhất giữa muôn người. Cú ngã ngựa trên đường Đa-mát, biến Sao-lô thành chứng nhân vĩ đại là Phao-lô, một người ngoài nhóm 12 tông đồ, để trao cho sứ mạng làm “Tông đồ Dân ngoại”, biệt danh này không ai có, ngoại trừ Phaolô. Từ đây cuộc đời của Phao-lô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông đồ đã sống và đã chết cho Đức Ki-tô.
Ý Trời hay ý muốn của Chúa Giê-su, Người mà ông đã ghét cay ghét đắng, căm thù đến tận xương tủy, khi chưa có dịp gặp, mà chỉ nghe nói đến do những kẻ thù của Chúa. Nhưng khi ông đã gặp Chúa Giê-su, tất cả đều thay đổi.
Chúa Ki-tô Phục sinh đã đổi mới tư tưởng và trái tim của Phao-lô. Không biết Đức Giê-su tại thế, Phao-lô đã ghét cay ghét đắng và sát hại không thương tiếc các môn đệ của Người. Giờ đây trái tim của Phao-lô được Chúa Giê-su chiếm lĩnh như chiếm đoạt trái tim của người yêu (Pl 3, 12 ). Và Phao-lô trở nên như một “người tình” của Chúa Giê-su, đến nỗi Phao-lô phải thú nhận: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ). 
Đúng như Phao-lô viết: “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5, 14), tất cả nhiệt tình nơi con người và cuộc đời Phao-lô đều phát xuất từ mối tình đó: Tình yêu của Chúa Ki-tô là “chủ thể yêu thương Phao-lô”, Tình yêu Chúa Ki-tô là “đối tượng mà Phao-lô yêu mến”. Tâm trí của Phao-lô đã hoàn toàn mở ra cho Chúa Ki-tô, và vì thế có khả năng mở rộng cho mọi người. Phao-lô trở nên tất cả cho mọi người (1 Cr 9, 12), sẵn sàng làm mọi sự cho “Tin Mừng tình yêu” mà người rao giảng. 
Phao-lô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Ki-tô. Biết mình đã tin vào ai, Phao-lô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9,3-18; 2 Cr11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Ki-tô. Phao-lô không ngại hùng hồn kể về những ”… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; phải chịu đủ thứ nguy hiểm và ra vào tù nhiều lần.
Nói đến Phao-lô là nói đến vị tông đồ của mọi thời đại
Phao-lô đã trở thành vị “Tông đồ của mọi thời đại”. Là Do thái với người Do Thái, Hy Lạp với người Hy Lạp, là người tự do, nhưng trở thành nô lệ của mọi người để phục vụ mọi người (1 Cr 9, 19 – 21), Phao-lô cũng có thể là Việt Nam với người Việt Nam, là Thái với người Thái, Phi với người Phi, Hàn Quốc với người Hàn Quốc. 
Không những là “con người của tình yêu”, Phao-lô còn là “con người của chân lý”. Đối với Phao-lô, chân lý là “Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô”  “Chân lý về một Tình Yêu mạnh hơn sự chết”, đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy từ cõi chết, trở thành nơi hội tụ của toàn thể nhân loại, toàn thể thế giới thụ tạo của Thiên Chúa.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 57 ngày cầu nguyện cho sự Hiệp nhất các Ki-tô hữu, chúng ta cùng cầu xin Chúa cho chúng ta tuân hành giới luật yêu thương, hầu chúng ta có thể gặt hái được nhiều hoa trái. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để nguyện vọng của Chúa Giê-su được hoàn thành, tất cả chúng nên một: tình hiệp nhất luôn luôn cao trọng hơn những xung đột. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM:
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu. Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi. Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống, để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh. Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3), Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo, bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5). Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã. Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.
Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước, thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7). Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt, thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11). Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối, thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11). Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói. Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8). Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu. Đức Giêsu và các Kitô hữu là một. Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.
 “Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10). Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa. Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa, anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm. Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì. Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu. Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người. Đamát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô, là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại, và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông. Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải. Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới. Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông. “Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8). Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai. “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13) . Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô: ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải. Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình, và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.
 Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý.Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác. Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con.
(Thánh Têrêxa Calcutta)  
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

SUY NIỆM: HIỆP THÔNG LOAN BÁO TIN MỪNG
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Lời mời gọi khẩn thiết ấy, Chúa Giêsu đã trân trọng trao gửi cho các môn đệ thân thương của Người.
Chúa Giêsu biết rằng với sức riêng, các ông khó có thể chu toàn nhiệm vụ to lớn ấy, cho nên Người đã ban cho các ông sức mạnh của Chúa Thánh Thần và kèm theo những khả năng riêng biệt, như làm các phép lạ.
Ở Việt nam hiện nay, có nhiều người trở nên nổi tiếng nhờ việc loan truyền những đoạn clip quay lại cảnh chữa bệnh rất kỳ lạ: chỉ cần uống một thứ gì đó, chỉ cần một vài động tác đơn giản thôi, thậm chí chỉ cần đặt tay cầu nguyện thôi thì nhiều thứ bệnh hiểm nghèo cũng mau chóng tan biến. Người ta mê cái gọi là “phép lạ” của những nhà tự cho mình là truyền giáo, thậm chí còn mê hơn cả đi lễ đọc kinh. Từ đó, dẫn đến đức tin có phần bị sai lạc. Chúa Giêsu không muốn các môn đệ chỉ trở nên những nhà biểu diễn phép lạ, nhưng Người muốn qua việc rao giảng Tin mừng mà con người đón nhận được ơn hoán cải và được cứu độ.
Hôm nay mừng kính thánh Phaolô tông đồ trở lại, Giáo hội muốn con cái của mình cùng nhìn về cuộc hoán cải đầy ngoạn mục của thánh nhân. Từ một người ghét Chúa, thù Chúa, bắt đạo và giết đạo, thánh Phaolô đã quay đầu để trở về với Chúa, và trở thành vị tông đồ mang nhiều người trở về cùng Chúa.
Cũng vậy, muốn trở nên người môn đệ làm cho người khác trở về với Chúa, thì chúng ta trước hết phải là người biết trở về cùng Chúa, nghĩa là biết hoán cải, hoán cải từ ngay những lỗi tội của mình. Ơn cứu độ của Thiên Chúa đã dành sẵn cho con người, nhưng điều quan trọng là con người có đón nhận hay không. Nhưng nói như thánh Phaolô: “Làm sao họ tin Đấng mà họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?”. (Rm 10,14-15).
Hôm nay, với lệnh truyền của Chúa Giêsu, tất cả chúng ta được Chúa sai đi rao giảng Tin mừng nước Trời của Người, rao giảng không chỉ bằng lời nói suông, nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần rao giảng qua những công việc và bổn phận hằng ngày của mình.
 Xin Chúa chúc lành cho những cố gắng rao giảng Tin mừng, để chúng ta luôn biết làm cho danh Chúa cả sáng ở những nơi và trong những ơn gọi dù là tận hiến hay đời sống gia
Nguồn tin: www.giaophanbaria.org


 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây