CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

Thứ sáu - 19/01/2024 06:05

CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC –  Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973  2

SỨ ĐIỆP PHÚC ÂM (*)- Chú giải của William Barclay.. 6

TIN MỪNG CỦA THIÊN CHÚA- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux   14

KHỞI ĐẦU CÔNG KHAI SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU (*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 23

CHÚA GIÊSU KÊU GỌI CON NGƯỜI HỢP TÁC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 33

SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG- Lm. Đan Vinh.. 49

ĐỔI MỚI CUỘC ĐỜI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt. 65

THỜI GIAN ĐÃ MÃN, NƯỚC THIÊN CHÚA ĐÃ GẦN ĐẾN-  Lm. Phêrô Lê Văn Chính   70

TÔNG ĐỒ CỦA CHÚA– Lm. Joshephus Quang Nguyễn.. 77

PHẨM CHẤT ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ- Lm. Inhaxiô Trần Ngà   82

NĂM MỚI, NGƯỜI MỚI, TRỜI ĐẤT MỚI-  Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm   86

HÃY THEO TA- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 91

ĐÁP TRẢ LỜI MỜI GỌI SÁM HỐI CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm Trần Bình Trọng   95

HỌP ĐOÀN- Lm. Vũ Đình Tường.. 101

MÃNH LỰC CỦA NIỀM TIN- Lm. Minh Vận CRM.. 104

 

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC –  Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973

BÀI ĐỌC I: Gn 3, 1-5. 10

“Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay”.

Bài trích sách Tiên tri Giona.

Lời Chúa phán cùng Giona rằng: “Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi”. Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng, Giona tiến vào thành phố đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ”. Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9.

Đáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. (c. 4b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. – Đáp.

2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. – Đáp.

3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. – Đáp.

 BÀI ĐỌC II: 1 Cr 7, 29-31

“Bộ mặt thế gian này đang qua đi”.

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.

Đó là lời Chúa.

 ALLELUIA: Mc 1, 15

Alleluia, alleluia! – Nước Chúa đã gần đến, hãy tin tưởng vào Phúc Âm. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Mc 1, 14-20

“Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”. Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.

Đó là lời Chúa.

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

SỨ ĐIỆP PHÚC ÂM (*)- Chú giải của William Barclay

Trong bảng tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu trên đây, có ba chữ vốn là những chữ quan trọng trong đức tin Kitô giáo.

1) Có Tin Mừng. Đó là Tin Mừng ưu việt mà Chúa Giêsu đã đem đến cho loài người. Theo dõi từ euaggelion, Phúc Âm, qua suốt Tân Ước, ít ra chúng ta cũng thấy được điều gì đó trong nội dung của nó.

a) Đó là Tin Mừngchân lý (Gl 2,5; Cl 1,5). Trước khi Chúa Giêsu đến, loài người chỉ phỏng đoán, mò mẫm để tìm Thiên Chúa. Gióp từng than thở “Ôi chớ chi tôi biết nơi nào tìm được Chúa” (G 23,3). Marcus Aurelius bảo linh hồn chỉ có thể nhìn thấy lờ mờ, và chữ ông dùng là một chữ Hy Lạp chỉ về việc trông thấy xuyên qua nướ Nhưng khi Chúa Giêsu đến, người ta thấy rõ ràng Thiên Chúa là thế nào. Họ không còn cần phỏng đoán, mò mẫm nữa, họ biết rõ.

b) Đó là Tin Mừng hy vọng(Cl 1,23). Thế giới thời cổ là một thế giới bi quan, Seneca đề cập về “sự bất năng, bất lực của chúng ta là điều tất yếu”. Trong cuộc chiến đấu cho điều thiện, loài người đã bị đánh bại và Chúa Giêsu đến đem hy vọng cho những tâm hồn tuyệt vọ

c) Đó là Tin Mừng bình an(Ep 6,15). Hình phạt dành cho con người là một nhân cách bị rạn nứt, giằng xé trong nội tâm. Trong nhân tính, con thú và thiên thần bị hòa lẫn vào nhau một cách quái dị. Người ta kể rằng có lần triết gia đi qua Schopenhauer đang đi lang thang, có người hỏi: Ông là ai? Ông đáp: Tôi hy vọng ông có thể nói cho tôi biế Còn Robert Burns tự nói về mình “Cuộc đời của tôi làm cho tôi nhớ lại một ngôi đền đã đổ nát. Ở một phần thì thật vững chắc, cân đối, nhưng ở những phần khác thì đầy lỗ hổng và những cảnh đổ nát hư hại tuyệt vọng”. Cái rắc rối nơi con người luôn luôn bị cả tội lỗi lẫn sự thiện ám ảnh. Chúa Giêsu đã đến để kết hợp phần nhân cách bị tách rời đó của con người lại với nhau, Ngài đã chiến thắng bản ngã để giúp kẻ bị Ngài bắt phục chiến thắng được phần bản ngã đang tranh chiến của mình.

d) Đó là Tin Mừng về lời hứa của Thiên Chúa(Ep 3,6). Nói đúng ra, thì loài người luôn luôn nghĩ về một Thiên Chúa đầy đe dọa chứ không phải một Thiên Chúa của những lời hứ Tất cả các tôn giáo phi Kitô giáo đều nghĩ đến một Thiên Chúa hay đòi hỏi điều này, điều nọ, chỉ Kitô giáo mới giảng về một Thiên Chúa sẵn sàng ban cho nhiều hơn những gì chúng ta cầu xin.

e) Đó là Tin Mừng về sự bất tử, bất diệt(2Tm 1,10). Với người ngoại đạo, thì sống là đang ở trên đường đi tới cõi chết, đặc điểm của loài người là hay chết, nhưng Chúa Giêsu đã đến với Tin Mừng là chúng ta đang đi trên con đường sự sống chứ không phải con đường sự chế

g) Đó là Tin Mừng cứu rỗi(Ep 1,13) và Tin Mừng ấy không phải là một cái gì tiêu cực, nó là một điều tích cự Nó không phải chỉ đơn giản là giải phóng khỏi hình phạt, khỏi các tội lỗi của quá khứ, nhưng là quyền phép để sống chiến thắng và để chinh phục tội lỗi. Sứ điệp của Chúa Giêsu thật là những tin tốt lành.

2) Có từ ăn năn. Ăn năn không quá dễ dàng như thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghĩ. Từ Hy văn metanoia nghĩa đen là thay đổi tâm trí. Chúng ta rất dễ lẫn lộn hai sự việc là hối tiếc vì các hậu quả của tội lỗi với hối tiếc vì chính tội lỗi. Nhiều người hết sức hối tiếc về tình trạng bẩn thỉu mà họ đã dính vào nhưng chính họ cũng hiểu rằng, nếu họ biết chắc là có thể tránh được các hậu quả của tội lỗi thì họ vẫn cứ tái phạm như thường. Họ không thù ghét chính tội lỗi, chỉ không thích các hậu quả của nó. Sự ăn năn thật có nghĩa là chẳng những hối tiếc về hậu quả của tội lỗi mà còn thù ghét chính tội lỗi nữa. Từ xưa, nhà văn lão thành Montaigne đã viết trong tập tự truyện của ông “Trẻ con phải được dạy dỗ để ghét thói xấu, vì chính bản chất của nó, để chẳng những tránh hành động, mà còn ghét thói xấu tận thâm tâm nữa, để chính ý nghĩ về thói xấu cũng khiến chúng ghê tởm dù dưới bất cứ hình thức nào”. Ăn năn có nghĩa là kẻ đang yêu thích tội lỗi trở lại thù ghét nó vì tính cách khốn cùng của tội lỗi. Vậy ăn năn là hoán cải.

3) Có từ tin. Chúa Giêsu phán “Hãy tin Tin Mừng”. Tin Tin Mừng chỉ đơn giản có nghĩa là nắm lấy lời phán dạy của Chúa Giêsu, tin rằng Chúa đúng như lời Chúa Giêsu nói với chúng ta, tin rằng Chúa yêu thương thế gian đến nỗi sẵn sàng hy sinh bất cứ điều gì để đưa chúng ta trở về với Ngài, tin rằng điều nghe ra khó có thể là sự thật, sẽ thật sự trở thành sự thật.

CHÚA GIÊSU CHỌN BẠN (Mc 1, 16-20)

Ngay sau khi Chúa Giêsu đã quyết định và xác định phương pháp hành động, thì Ngài bắt tay thiết lập bộ tham mưu của Ngài. Một lãnh tụ phải bắt đầu từ một điểm nào đó. Người ấy phải tự tạo cho mình một nhóm người để có thể thổ lộ tâm sự, để viết thông điệp của mình ngay trên tấm lòng của họ. Ở đây, Máccô cho chúng ta thấy việc Chúa đã thực sự đặt nền móng cho Nước Trời, và gọi số người đầu tiên theo Ngài.

Tại xứ Galilê có nhiều ngư dân, Josephus có một thời gian làm tổng đốc Galilê và là một đại sử gia của dân Do Thái, kể lại vào thời ông có 330 thuyền đánh cá trên biển Galilê. Dân chúng ở Palestine thường ít ăn thịt, nói chung thì hàng tuần họ không ăn hơn một lần. Cá là thức ăn chính của họ (Lc 11,11; Mt 7,10; Mc 6,30-44; Lc 24,12). Bình thường cá được đem muối vì không có phương tiện vận chuyển cá tươi. Cá tươi là một trong những loại cao lương mỹ vị ở các đô thị lớn, chẳng hạn như Rôma. Chính tên của các thị trấn nằm trên bờ biển hồ cho thấy nghề chài lưới rất quan trọng. Bếtsaiđa có nghĩa là nhà cá, một thị trấn khác trên bờ biển hồ tên Tarichaea có nghĩa là công trường cá muối. Chính tại đây cá được chuẩn bị để chở đến Giêrusalem và đến tận Rôma. Nghề buôn cá muối là một kỹ nghệ quan trọng tại Galilê.

Ngư dân thường dùng hai loại lưới, cả hai đều được đề cập trực tiếp hoặc ngụ ý trong các sách Phúc Âm. Có một loại gọi là sagènè, là một loại lưới kéo, người ta để nó ở phía sau lái thuyền, rất nặng và được thả ngay trên mặt nước, khi thuyền đi tới, nó chìm xuống dần dần, bốn góc lưới gặp nhau và trở thành một cái túi lớn nhốt cá vào trong. Loại thứ hai là loại mà Phêrô và Anrê vẫn dùng gọi là blestron, nó là một loại chài nhỏ, được khéo léo quăng ra bằng tay, nó có hình dáng như cây dù ném xuống nước và chìm dần để úp chụp cá vào trong.

Lẽ dĩ nhiên, nghiên cứu kỹ số người mà Chúa Giêsu đã chọn làm môn đệ là điều vô cùng thích thú.

1) Chúng ta chú ý xem họ là ai. Họ chỉ là những người thường, họ không hề xuất thân từ một trường cao đẳng nào, họ không hề được tuyển chọn từ giới tư tế, hoặc dòng quý tộc, không có học thức cũng không giàu có gì. Họ chỉ là ngư dân, nghĩa là những con người tầm thường, bình dị. Chưa hề có ai tin tưởng vào những con người bình thường như Chúa Giêsu. George Bernard Shaw có lần nói “Tôi chưa hề nghĩ gì về giai cấp công nhân, ngoại trừ muốn xóa bỏ nó đi để thay vào bằng những kẻ nhạy cảm”. Trong quyển “The Patrician”, John Galsworthy ký thác lời cho một nhân vật của ông: “Quần chúng, tôi không ưa họ, tôi ghét sự ngu xuẩn đê tiện của họ, tôi ghét tiếng ồn ào của họ, ghét nhìn thẳng gương mặt họ, nó nhỏ mọn xấu xí làm sao ấy”. Trong một cơn giận Carlyle đã tuyên bố rằng tại Anh Quốc có 27 triệu người thì đa số đều là những người điên. Chúa Giêsu đã không cảm thấy như vậy, Lincoln nói: “Đức Chúa Trời yêu thương giới bình dân, Ngài đã tạo ra họ thật đông đảo”. Dường như Chúa Giêsu muốn mời gọi “hãy giao cho tôi mười hai người tầm thường, và với chừng ấy, nếu họ tự hiến thân cho tôi, tôi sẽ thay đổi cả thế giới này”. Đừng bao giờ chúng ta nghĩ quá nhiều về mình là gì, nhưng hãy nghĩ đến những gì Chúa sẽ khiến chúng ta trở thành.

2) Chúng ta chú ý lúc Chúa Giêsu gọi thì họ đang làm gì. Họ đang làm công việc hàng ngày của mình, họ đang đánh cá, vá lưới. Với nhiều ngôn sứ cũng vậy, Amos nói “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng không phải là con của người ngôn sứ, nhưng tôi là một kẻ chăm sóc những cây vả rừng. Chúa đã bắt lấy tôi và phán cùng tôi rằng: Hãy đi, nói cho dân Israel” (Am 7,14.15). Tiếng gọi của Chúa Trời đến với một người không phải chỉ xảy ra trong nhà Chúa, cũng không chỉ ở nơi bí mật, nhưng giữa lúc người ấy làm công việc hàng ngày. Một người sống trong một thế giới luôn có sự hiện diện của Chúa sẽ không thể nào trốn thoát khỏi Ngài được.

3) Chúng ta chú ý xem Ngài đã gọi họ như thế nào. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu là “Hãy theo Ta”. Xin đừng nghĩ rằng hôm ấy là lần đầu tiên Ngài đứng trước mặt họ. Chắc chắn họ đã từng đứng giữa đám đông để lắng nghe Ngài; họ đã từng nán lại để trò chuyện cùng Ngài sau khi số còn lại trong đám đông đã giải tán, và họ đã từng cảm thấy một điều gì kỳ diệu từ đôi mắt vốn có sức thu hút lạ lùng của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hề nói với họ “Ta có một hệ thống thần học muốn đầu tư vào các ngươi, Ta có một số triết thuyết muốn các ngươi suy nghĩ, Ta muốn được thảo luận với các ngươi”. Ngài phán “Hãy theo Ta”. Tất cả đều bắt đầu bằng một phản ứng cá nhân đối với Ngài, tất cả đều bằng một xúc động từ thâm tâm, làm nảy sinh lòng trung thành không gì lay chuyển nổi. Nói thế không có nghĩa là một khi muốn theo Chúa Cứu Thế chẳng có ai suy nghĩ gì cả, nhưng phần đông trong chúng ta, theo Chúa Cứu Thế như là “phải lòng”, là bắt đầu yêu vậy. Có người đã tâm sự “chúng ta thán phục người khác có lý do, còn chúng ta yêu người khác thì chẳng có lý do gì cả”. Sự việc xảy ra chỉ vì họ là họ, mà ta là ta, vậy thôi. Chúa Giêsu phán “Còn Ta khi Ta được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta” (Ga 12,32). Nói theo số đông, sở dĩ chúng ta theo Chúa Giêsu chẳng phải do điều Chúa Giêsu đã phán, nhưng do tất cả những gì vốn tự có nơi Ngài.

4) Cuối cùng, chúng ta chú ý đến điều Chúa Giêsu đã ban cho họ. Ngài giao cho họ một nhiệm vụ: Ngài không gọi để họ gặp mọi sự dễ dãi, thoải mái, Ngài gọi họ để phục vụ. Có người bảo rằng, mọi người đều cần “một cái gì đó để có thể đầu tư cuộc sống của mình vào đây”. Chúa Giêsu đã gọi người ta theo Ngài không phải để cho họ được mọi sự dễ dàng thoải mái, không phải để sống thụ động, cả ngày chỉ đọc kinh cầu nguyện, chẳng làm gì cả. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà họ phải dành cả đời sống, phải hăng say gấp rút để đến cuối cùng, phải chết cho Ngài và cho đồng bào đồng loại. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà chẳng những họ không được gì cho riêng mình, nhưng còn phải hiến dâng tất cả cho Ngài và cho tha nhân.

 (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

TIN MỪNG CỦA THIÊN CHÚA- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux

Hai câu này khác nào một “bản tóm lược”: một cái nhìn bao quát về sứ vụ của Chúa Giêsu như sẽ diễn ra trong các trình thuật tiếp theo. Maccô đặt Chúa Giêsu trong khuôn khổ những sinh hoạt chính yếu của Ngài tóm lược sứ vụ của Ngài cách thật cô đọng.

Mọi từ trong đoạn văn đều đáng quan tâm (c. 14a). Chúng được cân nhắc cẩn thận. Trước hết ta được cho hay rằng Chúa Giêsu chỉ khởi đầu sứ vụ khi Gioan chấm dứt sứ vụ của ông và bị bắt giam. Như vậy là có một mối tương quan giữa sứ vụ của hai người. Maccô không nói Chúa Giêsu từ hoang địa Giuđêa trở về (1,12). Không một chuyển tiếp nào cả, ông cho thấy ngay Chúa Giêsu đi tới Galilê. Đó là tỉnh miền bắc xứ Palestin, nơi Chúa Giêsu sinh trưởng (x. Lc 4,14-16). Nhưng nhất là vì danh xưng Do Thái của nó, “Galilê” là “miền đất ngoại bang” (Is 8,23). Từ nhiều thế kỷ đây là ngã ba đường của các dân tộc. Vì những đoàn quân ngoại quốc và các thương gia đều phải qua nơi này, nên Galilê là vùng đất chung đụng từ xưa giữa những người Do Thái và dân ngoại. Trong Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu sẽ coi vùng đất này như một trung tâm “truyền giáo” tuyệt hảo. Vì ranh giới của miền này không rõ ràng nên người Israel dễ có liên hệ với những vùng đất dân ngoại bao quanh: phía bắc có Tia và Siđon, Syrô-Phênêci (bây giờ là Libăng), phía nam có miền Thập tỉnh (bây giờ là Gioocđani). Khi coi Galilê là địa bàn hoạt động chính của Chúa Giêsu, Maccô muốn nhấn mạnh rằng lời ngôn sứ mang tính phổ quát về Đấng Mêsia trong Isaia đã ứng nghiệm: “Dân đi trong bóng tối đã nhận thấy ánh sáng rạng ngời, trên dân cư của xứ sở một luồng sáng đã bừng lên” (Is 8,23-9,1).

Trong miền đất Galilê này, Chúa Giêsu khởi sự “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (c. 14b). Đó là lời loan báo ơn cứu độ “đến” từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang theo với Ngài “Tin Mừng” này (1,1). Các độc giả của Maccô hiểu rất rõ diễn ngữ “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”. Đó là nhiệm vụ các Tông đồ đã lãnh nhận sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh (1Tx 2,8). Nhiệm vụ này là làm cho mọi người biết rằng Chúa Giêsu đã tỏ mình ra là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa được các ngôn sứ loan báo. Chính Ngài là “Đấng Cứu độ trần gian” (Ga 4,42).

Tiếp theo, Maccô tóm lược trong hai câu đề tài căn bản trong lời công bố của Chúa Giêsu. Trước hết loan báo rằng giờ thi hành sứ vụ đã đến (c. 15a), nơi các Kitô hữu tiên khởi, thành ngữ “thời kỳ đã mãn” đã trở thành cổ điển. Nó có nghĩa là khi Chúa Giêsu đến là “thời gian đã đầy đủ” (Gl 4,4). Ý muốn cứu độ của Thiên Chúa đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu: Ngài là Đấng Mêsia đã đến để đưa lịch sử tới hồi chung cuộc “Nước Thiên Chúa đã đến gần” cũng là một xác tín của Thánh Kinh. Từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày ở Babilon, Israel đặt tất cả hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và việc thiết lập Vương Quốc Ngài trên mọi dân tộc. Nơi các ngôn sứ lòng mong đợi này càng khẩn thiết hơn (Mi 4,7; So 3,15b; Za 14,9 v.v…). Với Chúa Giêsu, Thiên Chúa hiện diện đang đích thân hoạt động. Vương Quốc Ngài đã gần kề (Mt 12,28b).

Và Maccô kết thúc bản tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu bằng cách đặt nơi miệng Ngài một lời kêu gọi cấp bách phải hoán cải để đón nhận trong đức tin biến cố hân hoan này (c.15b). Hoán cải –theo sát tiếng Hy Lạp- có nghĩa là “thay đổi não trạng”. Việc biến đổi này, một biến đổi cốt yếu nơi con người để trở lại với Thiên Chúa, cũng chính là nền tảng trong lời giảng dạy của các ngôn sứ (Am 4,6-12). Ở đây, Chúa Giêsu lặp lại một điểm nòng cốt trong sứ điệp của Gioan Tẩy Giả (1,4). Nhưng cùng với sự hoán cải cần phải có “niềm tin” vào Tin Mừng. Đó cũng là lời mời gọi của các Tông đồ khi lần đầu tiên các ngài công bố sự kiện Chúa Giêsu Phục Sinh. Phaolô đã làm thế ở Ephêsô: “Tôi kêu nài những người Do Thái và Hy Lạp trở lại với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu” (Cv 21,21).

Không phải là ngẫu nhiên, nếu ở đây Maccô nhấn mạnh tới mối liên tục giữa sứ vụ của Giáo Hội và sứ vụ của Chúa Giêsu. Giữa hai sứ vụ này là cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Người loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa lại trở nên chính đối tượng của lời loan báo. Điều này không thể không gây ấn tượng nơi độc giả.

Gọi Các Môn Đệ Đầu Tiên (1,16-20)

Maccô vẽ nên bức họa huy hoàng này vào đầu sứ vụ của Chúa Giêsu. Mấy tiếng đầu tiên gợi lên một lời mời gọi hướng về biển khơi (c. 16a). Chúa Giêsu đang lên đường. Sứ vụ Ngài thật cấp bách. Biển hồ Galilê –được biết đến nhiều hơn qua cái tên hồ Tibêria là một biển nước mênh mông với 21 km chiều dài và 12 km chiều rộng. Bờ hồ hướng về một chân trời rộng lớn mãi tới những miền đất dân ngoại bên kia sông Giođan. Bờ hồ này thường được Maccô nói tới như một chốn phát sinh lời mời gọi (trong đoạn văn này và ở 2, 13-14), và lời loan báo Tin Mừng cho đám đông dân chúng (2,13; 3,7-12; 5,21). Nhưng hoạt động của Chúa Giêsu ở đây lúc này chẳng khác nào như đặt nền cho một công trình xây dựng.

Ngài “thấy ông Simon với người anh là Anrê đang quăng chài xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá” (c. 16b). phía bắc hồ Tibêria nơi hai ông đang thả lưới là nơi nước ấm hơn và có rất nhiều cá. Gần bờ có nhiều ngư dân sinh sống, họ đánh bắt, ướp mặn và buôn bán cá. Chúa Giêsu hướng nhìn tới hai ngư phủ đang thả lưới. Ngài gọi các ông: “Các anh hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (c. 17). Ta không biết những lời mời gọi kiểu này đã gây ấn tượng gì nơi các ngư phủ ấy. Ở đây Chúa Giêsu không ngại chơi chữ. Ngài dùng thứ ngôn ngữ của nghề đánh cá để thôi thúc họ dấn thân vào sứ vụ tương lai: “lưới người như lưới cá”, kiểu nói thật kỳ cục! Theo quan niệm của người “sémites”, trong lòng biển chất chứa quyền lực đáng sợ của sự Dữ và Tử thần mà chỉ có một mình Thiên Chúa mới chế ngự nổi (4,35-41). Khi gọi những ngư phủ này để họ trở nên “kẻ lưới bắt” Chúa Giêsu mời họ theo Ngài đi vào trần gian giải thoát con người khỏi mọi điều dữ. Ta phải ngạc nhiên khi thấy Simon và Anrê mau lẹ đáp lại lời Chúa Giêsu kêu gọi (c. 18). Câu nói “bỏ chài lưới” nêu bật sự kiện những ngư phủ này từ bỏ công việc họ đang theo đuổi, và các ông bỏ dụng cụ hành nghề lại đó thật đột ngột khiến ta phải ngạc nhiên. Chẳng có trao đổi gì  giữa họ với Chúa Giêsu cả. Chỉ mình Ngài nói, còn các ông thì thực hiện lời Ngài, chẳng khác gì những người máy.

Còn phải ngạc nhiên hơn nữa khi đọc tới đoạn văn thứ hai vắn gọn và hoàn toàn song # đối với đoạn trên (c. 19-20). Lần này Chúa Giêsu không hề nói cho Giacôbê và Gioan biết họ sẽ làm gì. Thế mà chẳng những các ông bỏ dụng cụ hành nghề mà còn bỏ cả những người cùng chung sống nữa (cha già và những người làm công).

Các chi tiết của hai trình thuật trên đây diễn ra theo một trật tự giống hệt nhau:

– Chúa Giêsu đi ngang qua.

– Ngài thấy hai người là anh em với nhau.

– Ngài gọi họ.

– Lập tức họ bỏ tất cả mà đi theo Ngài.

Không chắc chắn lắm là biến cố đã xảy ra như vậy và một cách tự động như thế. Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan sẽ trở nên những cộng tác viên chính với Chúa Giêsu trong sứ vụ của Ngài (3,16-17).

Phải chăng tình cờ mà họ được gọi và họ cũng chẳng kịp tự do quyết định nữa? Chẳng ai lại dấn thân vào một cuộc sống “khác” chỉ bằng một cái gật đầu rồi đi theo một kẻ xa lạ, dù kẻ ấy có sức lôi cuốn tới đâu chăng nữa! Trình thuật về các môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan hẳn phải gắn với thực tế hơn (Ga 1,35-51). Trong đó ta thấy Chúa Giêsu mở cuộc đối thoại với những kẻ Ngài gọi và cho họ có thì giờ để quyết định cách chín chắn, sau một thời gian họ quen biết Ngài và đã ở với Ngài.

Maccô không quan tâm gì đến mặt tâm lý của sự kiện. Thế thì Maccô muốn cho trình thuật của ông có ý nghĩa gì? Câu trả lời sẽ dễ dàng nếu ta biết rằng Maccô đã cảm hứng từ một trình thuật mẫu về ơn gọi trong Thánh Kinh. Đó là câu truyện Elia gọi Elisê đi làm môn đệ ông (IV 19,19-21). Trong trình thuật này ta thấy người được gọi đã từ bỏ ngay mọi việc để đi theo thầy. Người ấy cũng chẳng được vị ngôn sứ cho phép về từ biệt cha mẹ nữa. Ngay tức thời, ông từ bỏ gia đình và nghề nghiệp: “Ông chỗi dậy và đi làm môn đệ Elia”.

Khi mô phỏng đoạn Thánh Kinh này để diễn tả ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, Maccô muốn nêu bật điều căn bản trong việc làm môn đệ Đấng Mêsia. Ông nhấn mạnh hai điều: Trước hết sáng kiến về lời mời gọi đến hoàn toàn từ Chúa Giêsu. Sau đó là chính lời mời gọi này: nó mang tính hiệu nghiệm tuyệt đối của Lời Thiên Chúa: “Ngài phán…và đã có” (x. St 1,3 v.v…). Hiệu quả của lời mời gọi đó là việc từ bỏ hẳn gia đình và nghề nghiệp. Chúng ta cần ghi nhận rằng không phải mọi người đều được yêu cầu cắt đứt những mối dây liên hệ cốt yếu và chính đáng này. Lời kêu mời chỉ được gửi tới một số người có ơn gọi rất đặc biệt. Simon (Phêrô) và Anrê, Giacôbê và Gioan là người được gọi để trở thành “cộng tác viên” gần gũi với Chúa Giêsu trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng (x. Thiết lập nhóm Mười Hai: 3,16-19).

Chắc chắn khi đặt trình thuật này như một “khai mở” cho toàn bộ cuốn Tin Mừng, Maccô đã có những ý định rõ rệt. Ý thứ nhất là Chúa Giêsu thi hành một tác vụ “nay đây mai đó”, đòi hỏi một cuộc sống và một sinh hoạt hết sức tự do. Theo quan điểm này, những ràng buộc với nghề nghiệp và gia đình sẽ gây cản trở. Tiếp đến, Maccô muốn hợp thức hóa sứ vụ Tông đồ như được trình bày. Sau khi thành lập nhóm Mười Hai, các môn đệ được sai đi từng hai người một, theo cách thức chính Chúa Giêsu đã dùng (x. Sai đi rao giảng: 6,7). Sau cùng, để đi theo Chúa, Phêrô và nhóm Mười Hai đã nêu gương từ bỏ tuyệt đối (x. 10,28). Có lẽ Maccô cũng muốn gợi ý với Giáo Hội Rôma, mà ông viết Tin Mừng cho, rằng trong cuộc bách đạo các Kitô hữu tân tòng cũng có thể được mời gọi từ bỏ những điều quý giá nhất: vị trí trong xã hội và những liên hệ gia đình.

Qua suốt dòng lịch sử của mình, Giáo Hội đã đọc được nơi những trang Tin Mừng này lời mời gọi những ai muốn theo sát bước chân Chúa Giêsu từ bỏ những của quý giá nhất.

Trình thuật vừa đọc cho ta cảm tưởng rằng những sự kiện ấy xảy ra cách dồn dập. Nó khác nào phần rút gọn của cả một cuốn phim sẽ diễn ra trong suốt Tin Mừng. Lời Chúa Kitô mời gọi khiến các môn đệ “cất bước đi theo Ngài và vận dụng hết nghị lực để phục vụ Ngài. Cần ghi chú rằng, đối với nhiều người, bút pháp của Maccô gây một cảm giác mau lẹ thúc bách người đọc. Ông sử dụng cả một lô trạng từ “lập tức”. Hai lần trong đoạn văn trên đây (c. 18a và 20a) và tới mười một lần chỉ nguyên trong chương thứ nhất thôi. Rất thường những tiếng “lập tức” này không hề có giá trị thời gian. Chúng chỉ tương đương với liên từ “và”.

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

KHỞI ĐẦU CÔNG KHAI SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU (*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Vào ngày 30/09/2019 khi cử hành lễ kỷ niệm 1600 năm thánh Giê-rô-ni-mô qua đời, người là dịch giả bản Kinh Thánh La-tin nổi tiếng và là người khẳng định rằng “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô”, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ban Tông Sắc “Aperuit Illis” (“Ngài đã mở trí cho họ”) để ấn định Chúa Nhật III Thường Niên là “Chúa Nhật Lời Chúa”.

Thật ra, mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta tôn kính Lời Chúa là nguồn sống của các tín hữu. Hiến Chế Mặc Khải viết: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (“Hiến Chế Mặc Khải”, số 22).

Vì thế, khi ấn định Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu ý thức nhiều hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc sống của mình khi đề nghị “các linh mục ở giáo xứ có thể tìm ra hình thức tương xứng nhất để đặt cuốn Kinh Thánh, hay một trong các sách của bộ Kinh Thánh, cho toàn thể cộng đoàn, để làm nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc bản văn trong đời sống hàng ngày, để đào sâu bản văn và để cầu nguyện với Kinh Thánh, trong khi tham chiếu bằng cách thế đặc biệt theo cách đọc Lectio Divina” ( “Tông Sắc Aperuit Illis, số 3”).

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thương Niên Năm B thuật lại những đáp trả mau mắn không một chút trì hoãn trước Lời Chúa.

Gn 3: 1-5, 10

Dân thành Ni-ni-vê, dù là một thành phố ngoại giáo, đã đáp trả tích cực bằng hành vi ăn năn sám hối trước lời Thiên Chúa phán qua ngôn sứ Giô-na.

1Cr 7: 29-31

Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy sống tận mức ơn gọi Ki-tô hữu của mình vì chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của ơn cứu độ.

Mc 1: 14-20

Các môn đệ tiên khởi đã đáp trả triệt để bằng cách từ bỏ nghề nghiệp và gia đình trước lời Đức Giê-su kêu gọi.

BÀI ĐỌC I (Gn 3: 1-5, 10)

Sách Giô-na được viết theo thể loại ngụ ngôn luân lý, theo đó trí tưởng tượng trộn lẫn với óc khôi hài; nhưng giáo huấn của sách mở ra những viễn cảnh phổ quát.

Ngôn sứ Giô-na không là tác giả, nhưng là nhân vật chính của câu chuyện được kể trong sách. Chúng ta không biết một chút gì về tác giả. Theo lời kể trong sách, ngôn sứ Gio-na được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ vụ của mình cho dân thành Ni-ni-vê ngoại giáo vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, thành đô nầy đã bị phá hủy vào năm 612 trước Công Nguyên, tức là thành đô nầy đã không còn nữa trước đó gần hai thế kỷ. Vì thế, bối cảnh của chuyện kể là hư cấu và nhân vật là tưởng tượng.

*1.Bài học của câu chuyện:

Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải ở nơi tính lịch sử của câu chuyện nhưng bài học mà câu chuyện muốn gởi gắm. Việc chọn thành đô nầy có một ý nghĩa chính xác: Ni-ni-vê là kinh đô của đế quốc Át-sua vào thời cực thịnh. Đây là thành phố thù địch không đội trời chung với dân Do thái và là biểu tượng tinh hoa của thế giới ngoại giáo.

Ấy vậy, khi vị ngôn sứ cất bước công bố sứ điệp của Thiên Chúa chưa hết một phần ba kinh thành, thì toàn thể dân thành đã ăn năn sám hối, từ vua quan cho đến thường dân. Đây mới thật sự là một bài học nhớ đời cho dân Ít-ra-en. Khi đọc câu chuyện này, làm thế nào dân Do thái không thể không nghĩ đến việc ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố những lời cảnh báo nghiêm khắc như thế cho dân thành Giê-ru-sa-lem để kêu gọi họ ăn năn sám hối? Ấy vậy, triều thần và ngay cả vua đã ra lệnh đốt sách của vị ngôn sứ. Đó là lý do tại sao thành đô Giê-ru-sa-lem đã bị đánh chiếm và bị phá hủy, còn dân thành đã phải chịu cảnh lưu đày ở đất khách quê người.

Chính Đức Giê-su nêu gương sám hối của dân thành Ni-ni-vê như một bài học cho thế hệ của Ngài: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ nầy và sẽ kết án họ, vì xưa dân nầy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa” (Mt 12: 41).

*2.Ơn cứu độ phổ quát:

Thật ra, nhân vật chính của sách không là ngôn sứ Giô-na mà chính là Thiên Chúa, Ngài không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái, nhưng còn là Thiên Chúa của muôn dân nữa. Ngài quan tâm đến những tội lỗi của một dân ngoại giáo; nhưng trước khi trừng phạt dân này, Ngài sai một vị ngôn sứ đến với họ như Ngài đã từng làm đối với dân Ngài chọn. Như vậy, Thiên Chúa ban khả năng cứu độ cho hết mọi người không trừ một ai. Ngài chỉ cốt cảnh báo để đánh thức lương tri và thúc dục lòng ăn năn sám hối, vì thế, tấm lòng từ bi nhân hậu của Ngài trải rộng ra với hết mọi dân nước.

BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 28-31)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, thánh nhân trả lời những vấn nạn mà cộng đoàn đã nêu lên cho ngài; đoạn ngài loan báo một vấn đề cốt yếu: “Tôi xin nói với anh em điều nầy: thời gian chẳng còn bao lâu nữa”.

*1.Lời loan báo gây sững sốt:

Chúng ta lưu ý rằng bản dịch: “thời gian chẳng còn bao lâu nữa” không thể lột tả hết tư tưởng của thánh nhân. Theo nguyên ngữ Hy lạp, lời loan báo nầy gợi lên một hình ảnh rất sống động: “đây là lúc các buồm thuyền đã được cuốn lại” khi con thuyền sắp cập bến. Vì thế, đây là thời gian thuận tiện, các tín hữu phải hành xử như người sắp cập bến đời đời.

*2.Phần minh chứng:

Tiếp đó, thánh nhân đưa ra những minh chứng được kết nối vào nhau một cách tự nhiên như một chuỗi các mắc xích: từ nay, những ai sống đời sống vợ chồng, đừng gắn bó với những ham muốn xác thịt; những ai sống trong phiền muộn, đừng than khóc như những người không có niềm hy vọng; những ai sống trong niềm vui, hãy nghĩ rằng hạnh phúc trần thế chỉ là thoáng qua; những ai có nhiều của cải, đừng cho mình là chủ nhân; vân vân.

*3.Chủ đích của thánh Phao-lô:

Phải chăng thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sắp đến gần rồi? Cũng có thể lắm, nhưng đó không là điều tất yếu. Thánh nhân đã khai triển chủ đề nầy rồi. Thật ra, trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dường như thánh nhân hy vọng rằng ngày Chúa quang lâm sẽ xảy đến vào thế hệ của ngài: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu” (1Tx 4: 15). Nhưng trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sẽ đến khi nào toàn thể dân Ít-ra-en ăn năn sám hối (Rm 11: 25-26). Chúng ta có thể nói rằng đối với thánh nhân, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô đã làm tăng tốc Lịch Sử Cứu Độ. Chúng ta đã bước vào kỷ nguyên cứu độ, nghĩa là sống trong thời kỳ viên mãn. Như vậy, cách ăn nếp ở của những người Ki-tô hữu phải khác với dân ngoại. Chúng ta không được sống nước đôi, bắt cá hai tay, vì chúng ta biết rằng thế giới nầy đang qua đi.

TIN MỪNG (Mc 1: 14-20)

Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần thứ nhất nói về “khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giê-su” (1: 14-15) và phần thư hai “Chúa Giê-su kêu gọi bốn môn đệ tiên khởi” (1: 16-20).

*1.Khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su (1: 14-15):

 Trong phần thứ nhất, với thông tin “sau khi ông Gioan bị nộp”, thánh Mác-cô cho chúng ta biết Chúa Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài ngay khi sứ vụ của Gioan Tẩy Giả chấm dứt. Hơn nữa, trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô cũng sử dụng động từ “bị nộp” để nói về cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Giê-su. Như vậy, qua động từ “bị nộp”, thánh ký cho thấy có một mối tương quan mật thiết giữa sứ vụ của hai người: số phận của Gioan Tẩy Giả tiên báo số phận của Đức Giê-su.

Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su được tóm lược ở nơi lời công bố này: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. Trước hết, Chúa Giê-su loan báo thời kỳ hiện nay đến hồi chấm dứt và một thời đại mới, thời đại cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Đó là thời Thiên Chúa đã ấn định để thực hiện và hoàn thành các lời hứa của Người.

Kể từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày tại Ba-by-lon, dân Do thái đặt tất cả mọi niềm hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và thiết lập Vương Quyền của Ngài trên mọi dân nước (Mk 4: 7; Xp 3: 15b; Dcr 14: 9; vân vân). Ở đây, Chúa Giê-su khẳng định rằng với sự hiện diện của Ngài, “Triều Đại Thiên Chúa” đã  đến và đang hiện diện ở đây.

Sau cùng, Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi tấm lòng sám hối, tức là thay đổi đời sống. Việc thay đổi đời sống này phải được bày tỏ ra bên ngoài bằng việc tin vào Tin Mừng. Nội dung của Tin Mừng được xác định ngay từ đầu: “Tin Mừng của Thiên Chúa”, nghĩa là Tin Mừng phát xuất từ Thiên Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô, Người là hiện thân Tin Mừng của Thiên Chúa.

*2.Chúa Giê-su kêu gọi bốn môn đệ tiên khởi (1: 16-20):

Trong phần thứ hai, thánh Mác-cô soạn thảo hai bài trình thuật ngắn về việc Chúa Giê-su gọi bốn môn đệ đầu tiên (1: 16-18 và 1: 19-20). Hai bài trình thuật tuy có vài điểm khác nhau nhưng bổ túc cho nhau để nêu bật sáng kiến của Đức Giê-su và lời đáp trả mau mắn của các môn đệ. Chính Chúa Giê-su đích thân gặp gỡ các môn đệ đầu tiên này ngay nơi họ đang làm việc và cất tiếng kêu gọi họ đi theo Người, tức là trở thành môn đệ của Người (1: 17 và 1: 20). Sau này trong Tiệc Ly, Chúa Giê-su nói rõ ra: “Không phải anh em đã chọ Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái anh em được tồn tại” (Ga 15: 16). Đối với những ngư phủ biển hồ Ga-li-lê này, Chúa Giê-su dùng chính hình ảnh nghề nghiệp của họ để loan báo sứ mạng sau này của họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”.

Hai bài trình thuật về ơn gọi của bốn môn đệ đầu tiên cung cấp một khuôn mẫu cho ơn gọi của tất cả các môn đệ Chúa Giê-su. Sự kiện các môn đệ đầu tiên này chưa được chuẩn bị tinh thần cũng như tâm lý cốt là để nhấn mạnh trọng điểm của câu chuyện: Đức Giê-su và lời kêu gọi của Người hấp dẫn đến độ không bất kỳ sự chuẩn bị nào là cần thiết; các môn đệ đầu tiên đòi buộc dấn thân theo Người với trọn tấm lòng say mê. Họ sẵn sàng đoạn tuyệt với gia đình và nghề nghiệp (1: 18 và 1: 20) và mau mắn đi theo Đức Giê-su mà không một chút đắn đo cân nhắc hơn thiệt.

Khi Thiên Chúa kêu gọi ai, việc đầu tiên là đòi hỏi người đó phải từ bỏ. Ơn gọi đầu tiên trong Cựu Ước cũng theo một khuôn mẫu như thế. Khi Thiên Chúa kêu gọi tổ phụ Áp-ra-ham, Người cũng đòi hỏi ông: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi…” (St 12: 1). Ơn gọi đầu tiên trong Tân Ước cũng không ngoại trừ. Câu chuyện ơn gọi đầu tiên này nhấn mạnh cái giá phải trả để trở thành môn đệ của Chúa Giê-su: bỏ lại sau lưng gia đình, tức là tình cảm thiêng liêng và cao quý nhất của một con người, và nghề nghiệp, tức là sự đảm bảo cho mình địa vị và kinh tế trong xã hội để cùng “đồng hội đồng thuyền, đồng sinh đồng tử” với Thầy. Vì thế, đối với những ai mà Người muốn liên kết vào sứ mạng của Người một cách tận mức, Đức Giê-su đòi hỏi một tinh thần siêu thoát triệt để: không có bất cứ cái gì ngăn trở người ấy hoàn toàn thuộc về Ngài. Nhưng ai có thể đòi hỏi tận mức đến như thế nếu không phải là Thiên Chúa?

  (*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

CHÚA GIÊSU KÊU GỌI CON NGƯỜI HỢP TÁC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc I (Gn 3,1-5.10) : Chúa kêu gọi ngôn sứ Giona đến thành Ninivê rao giảng sự sám hối.

– Tin Mừng (Mc 1,14-20) : Bài tường thuật của Thánh Mác cô về việc Đức Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên.

– Bài đọc II (1 Cr 7,29-31) : Mọi giá trị trần gian đều không bền, vậy hãy xử dụng những của cải thế gian với một tấm lòng không dính bén.

*I. DẪN VÀO THÁNH  LỄ

Anh chị em thân mến

Lời Chúa hôm Chúa nhật vừa qua nói về ơn kêu gọi. Lời Chúa hôm nay tiếp tục đề tài đó. Thật ra không phải chỉ những kẻ đi tu mới được Chúa kêu gọi, mà tất cả mọi tín hữu đều được Chúa kêu gọi, mỗi người một sứ mạng theo đấng bậc của mình.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ý thức ơn gọi và sứ mạng của mình.

*II. GỢI Ý SÁM HỐI

– Lời đầu tiên của Đức Giêsu khi bắt đầu rao giảng là “Hãy sám hối”. Chúng ta hãy ý thức thân phận tội lỗi của mình và sám hối quay về với Chúa.

– Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta “Hãy tin vào Tin Mừng”. Trên thực tế, chúng ta chưa siêng năng đọc Tin Mừng và sống theo Tin Mừng bao nhiêu.

– Nhiều lần Chúa kêu gọi chúng ta làm việc tông đồ, phục vụ Giáo Hội. Nhưng chúng ta cứ giả điếc làm ngơ.

*III. LỜI CHÚA

*1. Bài đọc I (Gn 3,1-5.10)

Trong lịch sử, Ninivê là thủ đô của Đế quốc Assyria, kẻ thù đã nhiều lần tấn công dân do thái. Vì vậy, trong đầu óc người do thái, Ninivê luôn là một thành phố xấu xa, tội lỗi và đáng bị trừng phạt.

Chính vì thế, khi Thiên Chúa gọi ngôn sứ Giona đi Ninivê rao giảng sự sám hối để được thứ tha, Giona rất khó chịu. Ông cũng đi nhưng cố tình đi lạc đến một nơi khác. Nhưng làm sao mà con người có thể đánh lừa được Thiên Chúa. Thiên Chúa cho tàu chở Giona bị bão, thuỷ thủ quăng ông xuống biển. Một con cá lớn nuốt ông vào bụng rồi nhả ông lên bờ biển Ninivê. Cuối cùng Giona chỉ còn đành theo lệnh Chúa vào thành rao giảng. Kết quả là dân thành đã ăn năn sám hối và được Chúa thứ tha.

Câu chuyện này đề cập – một cách phản diện – đến ơn gọi và sứ mệnh của kẻ được gọi : Chúa gọi ai không phải để người đó làm theo ý mình, mà làm theo ý Chúa cho dù ý Chúa rất trái ngược với ý riêng mình ; người được gọi có thể rất bất xứng, như Giona, nhưng đó là một dụng cụ Chúa dùng, và Chúa biết cách dùng để dụng cụ ấy sinh ra hiệu quả.

*2. Đáp ca (Tv 24)

Đây là lời van lơn của người tội lỗi, xin Chúa chỉ đường mở lối cho họ theo. Lời van xin này có thể đặt vào miệng dân thành Ninivê tội lỗi, và dĩ nhiên cũng có thể đặt vào môi miệng của chúng ta.

*3. Tin Mừng (Mc 1,14-20)

Bài Tin Mừng ngắn này gồm hai phần :

– Các câu 14-15 : Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài chọn nơi xuất phát là vùng đất Galilê đa số là lương dân. Nội dung rao giảng chính của Ngài là “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

– Các câu 16-20 : Đức Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên là hai cặp anh em Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan. Những điểm đáng lưu ý là : a/ Ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Đức Giêsu (chính Ngài gọi 4 người ấy chứ không phải họ xin đi theo Ngài) ; b/ Ngài gọi họ ngay trong môi trường làm việc của họ (bên bờ biển), trong lúc họ đang làm việc bình thường (vá lưới) ; c/ Đáp lại, người được gọi phải từ bỏ tất cả để theo Ngài.

*4. Bài đọc II (1 Cr 7,29-31)

Thánh Phaolô giúp các tín hữu suy nghĩ về giá trị của những thực tại trần thế : hạnh phúc gia đình, những niềm vui nỗi buồn, những của cái vật chất… So với Nước Trời, tất cả những thứ kể trên đều chỉ là những thứ chóng qua chứ không bền vững. Vì thế Thánh nhân kêu gọi : “ai có vợ hãy ăn ở như không có, người than khóc hãy ăn ở như không than khóc, kẻ hân hoan hãy ăn ở như không hân hoan, người mua sắm hãy ăn ở như không có gì”.

Thật là những lời rất lạ lùng và khó hiểu. Nhưng đó là chân lý. Và chỉ những ai ý thức được chân lý này mới có thể từ bỏ tất cả để đáp lại tiếng Chúa kêu gọi.

*IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Tiếng Chúa kêu gọi

Phụng vụ hôm nay có một chủ đề chính, đó là “Tiếng Chúa kêu gọi”. Bài Cựu Ước nói về việc Chúa gọi tiên tri Giona đi rao giảng lòng sám hối cho dân Thành Ninivê. Bài Trích thư gởi giáo dân Côrintô nói về sự cấp bách phải đáp lại tiếng Chúa gọi mà hoán cải đời sống. Còn bài Tin Mừng thì nói về việc Chúa gọi  4 Tông đồ đầu tiên là Anrê, Phêrô, Giacôbê và Gioan.

Người thường hiểu “tiếng Chúa kêu gọi” theo nghĩa hẹp, đó là Chúa gọi một người nào đó từ bỏ thế gian đi tu làm việc tông đồ cho Chúa trong cương vị của một Linh mục, hay một Tu sĩ. Hiểu rộng thêm một chút thì “Tiếng Chúa kêu gọi” cũng có thể là ý Chúa có liên quan đến cuộc sống của mình, hoặc là đi tu, hoặc có gia đình. Nhưng hiểu như thế vẫn còn hẹp nghĩa lắm. Không phải là Chúa chỉ gọi chúng ta đi tu hoặc có gia đình, mà tiếng Chúa còn vang lên kêu gọi chúng ta rất nhiều lần trong cuộc đời.

Mặc dù Chúa vô hình nhưng Chúa vẫn nói chuyện với chúng ta bằng nhiều cách thức khác nhau : Thời Cựu Ước Chúa nói với loài người qua trung gian các ngôn sứ. Trong 33 năm Đức Giêsu sống ở trần gian, Chúa trực tiếp nói chuyện với loài người bằng miệng bằng lưỡi, như Chúa đã kêu gọi 4 tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Còn ngày nay, Chúa vẫn nói, vẫn gọi chúng ta bằng nhiều cách thức :

. Có khi là trong một lần chúng ta sốt sắng cầu nguyện.

. Có khi trong lúc ta đọc một đoạn Tin Mừng, nghe một bài giảng.

. Và rất nhiều khi Chúa nói với ta qua những biến cố cuộc đời, nhất là những biến cố buồn, như bệnh tật, thất bại, khổ sở, không được vừa ý.

Chúa vẫn còn nói, còn gọi. Nhưng có người thì nghe, có người thì không nghe ; có người làm theo, có người bỏ qua.

Và khi chúng ta đã được nghe tiếng Chúa, đã được biết Chúa muốn mình phải làm gì, thì chúng ta hãy lập tức không chần chừ đáp lại và làm theo tiếng Chúa kêu gọi, như gương 4 tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay.

* 2. Câu chuyện chàng trị trưởng trẻ

Tin tức trên báo chí (theo VietCatholic News ngày 22/9/2000) về chàng thị trưởng đẹp trai của thành phố Ficarra, mới 34 tuổi, đã lặng lẽ từ nhiệm để đi tu, đã gây chấn động toàn nước Ý. Hôm 20/09/2000, Antonio Mancuso đã chính thức đến trình diện tại một dòng tu ở Milan, bắt đầu cuộc đời một tu sĩ. Antonio cho biết anh đã thấy mình có ơn gọi linh mục từ ngày còn là cậu bé giúp lễ, đã suy nghĩ trong bao năm về vấn đề này và trằn trọc rất nhiều sau khi theo dõi các bài thuyết giảng của Đức Thánh Cha trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15. Antonio bỏ lại sau mình chức vụ thị trưởng, căn nhà do cha anh để lại, một mẹ già, hai anh em, và thành phố Ficarra xinh đẹp với 2.000 cư dân dưới quyền. Quyền thị trưởng Franco Tumeo đã xác nhận quyết định của Antonio với thông tấn xã ANSA. Ông nói : “Quyết định mà thị trưởng chúng ta đã chọn cần phải được hoàn toàn tôn trọng và hy vọng rằng không ai lợi dụng chuyện đó. Chẳng cần phải nói, chúng ta cầu chúc cho Antonio Mancuso những điều tốt đẹp nhất với xác tín rằng quyết định của anh là hoa trái của những suy nghĩ trong nhiều năm qua”. Quyết định từ nhiệm của anh sẽ khiến cho thành phố Ficarra phải bầu cử lại sớm hơn, có lẽ vào tháng 6/2001. Tạm thời một ủy ban đặc biệt sẽ thay thế công việc của nguyên thị trưởng. Với bằng chính trị học ưu hạng, Antonio đang là một ngôi sao sáng chói của đảng Dân Chủ Thiên Chúa giáo Ý. Anh đã là thị trưởng trẻ nhất của quốc gia này, lúc mới 27 tuổi, từ 1992 đến cuối tháng 9 vừa qua. Ngày 14/09/2000, một tháng kể từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15, sau nhiều đêm không ngủ, Antonio đã từ giã tòa thị trưởng chẳng nói với ai một lời nào. Thư từ nhiệm đã được gởi đến văn phòng 2 ngày sau đó qua đường bưu điện.

* 3. Chúa cần đến con người

Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, cho nên muốn làm bất cứ điều gì thì Ngài cũng làm được, làm cách dễ dàng, làm cách nhanh gọn, không cần vật liệu và cũng không cần ai giúp đỡ. Việc dựng nên trời đất muôn vật đã chứng mình điều này.

Tuy nhiên, trong việc cứu độ thì Ngài lại cần đến con người : Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước bắt đầu bằng việc Thiên Chúa kêu gọi ông Abraham ; lịch sử cứu độ thời Tân Ước, như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật, bắt đầu bằng việc Chúa kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên.

Thánh Augustinô đã suy gẫm và rút ra kết luận : “Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần con góp sức con”.

Công trình tạo dựng của Chúa đã hoàn tất. Nhưng công trình cứu độ vẫn còn phải tiếp tục, vì ngày nay còn rất nhiều người chưa được cứu độ. Như thế, Chúa vẫn còn cần con người. Vì vậy Chúa tiếp tục kêu gọi, và cần có những người đáp lại lời kêu gọi đó để công tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.

Công trình cứu độ những người trong nước tôi, trong xóm tôi cũng còn phải tiếp tục. Nếu không có ai đáp lại lời kêu gọi của Chúa thì công trình ấy phải đình trệ.

*4. “Hãy sám hối

Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ bằng lời kêu gọi “Hãy sám hối”. Lời này được gửi đến ai ? Dĩ nhiên là gửi đến những người tội lỗi trước tiên. Nhưng cũng gửi đến tất cả mọi người nữa, kể cả những người tốt lành.

Nhìn lại cuộc đời Đức Giêsu, chúng ta thấy Ngài gặp rắc rối với người tội lỗi thì ít nhưng với người tốt lành thì nhiều hơn. Tại sao vậy ? Thưa vì kêu gọi người tội lỗi sám hối thì dễ, vì họ biết mình tội lỗi ; còn kêu người tốt lành sám hối thì rất khó, bởi họ không thấy có gì cần sám hối. Cũng như bảo một người bệnh đi bác sĩ thì dễ hơn bảo một người nghĩ rằng mình không có bệnh.

Bởi thế, để đáp lại lời kêu gọi sám hối thì trước hết ta phải thấy không hài lòng với chính mình và kế đó phải mong muốn cho mình được tốt hơn. Phải ý thức có một cái gì đó sai lạc hoặc ít ra là còn thiếu. Cảm nghiệm sám hối bắt đầu với sự nhận biết rằng mình chưa là điều mình phải là.

Tiếp đến, sám hối còn đòi phải có can đảm : can đảm không tự lừa dối mình nữa, và can đảm đối diện với thực tại phũ phàng của bản thân mình. Can đảm chấp nhận tội lỗi của mình và can đảm thay đổi. Sự can đảm nấy rất cần thiết, bởi vì con người thường thích đi trên những đường xưa lối cũ, con người thường đã lún sâu trong những thói quen đã ăn sâu, cho nên thay đổi rất là khó.

Có người cũng thấy một tương lai tốt lành hơn nhưng không thể thay đổi chính mình để đi đến tương lai đó, bởi vì con đường phía trước thì dài và tiến bộ thì rất chậm chạp khó khăn. Đó là lý do tại sao nhiều người thà tiếp tục sống như cũ.

Có người xem sám hối là một việc cực nhọc, tiêu cực và buồn thảm, bởi vì họ nghĩ rằng sám hối chỉ là cảm thấy mình tội lỗi và cố gắng làm việc đền tội. Thực ra sám hối là việc rất tích cực : đành rằng một mặt phải ý thức mình tội lỗi, nhưng mặt khác người sám hối cũng ý thức mình có khả năng làm điều tốt. Như thế, sám hối là có một cái nhìn mới, tiến bước theo một hướng mới, đặt cho đời mình những mục tiêu mới. Nếu hiểu được như thế thì sám hối trở thành một sức mạnh khuyến khích và luôn dẫn chúng ta tới niềm vui. (Viết theo Flor McCarthy)

*5. Sống và chia sẻ niềm tin

Đức Tổng Giám mục Helder Camara của Braxin có lần đã chia sẻ kinh nghiệm như sau :

Tôi có người anh lớn hơn tôi 5 tuổi, đã rửa tội từ lúc mới sinh, và từng theo học nhiều năm trong trường dòng. Nhưng lớn lên anh bắt đầu bê trễ, bỏ đọc kinh, bỏ dự lễ, và cuối cùng bỏ… đạo.

Sau khi tôi thụ phong linh mục, anh cùng với tôi sống chung với người chị độc thân. Mỗi lần biết tôi sắp đi giảng tĩnh tâm, anh lại hỏi :

– Hôm nay chú nói về đề tài gì ?

Tôi lại có dịp giải thích cho anh những điều mình sắp giảng. Anh chỉ lắng nghe, không bình luận.

Tám năm sau, anh bị mắc căn bệnh hiểm nghèo. Biết mình sắp chết, anh gọi tôi lại và nói :

– Lâu nay tôi để ý quan sát, thấy không có sự cách biệt giữa lời chú giảng và việc chú làm. Vậy xin hỏi chú, tôi có thể dựa vào Đức tin của Chúa để rước lễ không ?

Tôi trả lời :

– Em tin là Chúa lòng lành vô cùng sẽ đoái thương anh.

Bấy giờ anh tôi nói trong nỗi xúc động :

– Ngay bây giờ thì chưa được đâu, vì tôi chưa xưng tội.

Tôi định tìm cho anh một linh mục khác nhưng anh đòi xưng tội với tôi. Sau khi rước lễ xong, anh thều thào trong nước mắt.

– Tôi tin, tôi tin, chú ạ. Bây giờ tôi tin không phải dựa vào đức tin của chú, mà tôi thực sự xác tín rằng Chúa yêu thương tôi !

Ít phút sau đó anh đã ra đi trong bình an, thanh thản.

*

Sống và chia sẻ niềm tin, đó là cốt lõi đời sống người tín hữu Kitô. Đó cũng là mối quan tâm hàng đầu của Đức Giêsu khi Người bước vào đời công khai rao giảng :“Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người” (Mc.1,17).

Muốn thu hút tha nhân thì chính mình phải có năng lực hấp dẫn.

Muốn hòa hợp với anh em thì chính mình phải biết chấp nhận mọi người.

Muốn chia sẻ niềm tin thì chính mình phải có niềm tin kiên vững.

Sống và chia sẻ niềm tin, bao giờ cũng đem lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả thế nào, nhiều hay ít, vào lúc nào còn do Chúa quyết định. Khi Đức Giêsu bảo Phêrô thả lưới, ông đã thưa : “Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc.5,5). Kết quả thế nào chúng ta đã biết : cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá bội thu.

 Sống và chia sẻ niềm tin, là nhiệm vụ của mỗi người tín hữu Kitô. Nhưng trước tiên phải bắt đầu bằng việc đổi mới tâm hồn, bằng việc “Sám hối và tin vào Tin mừng”.

Sống và chia sẻ niềm tin, là đem tin vui đến cho mọi người. Nhưng trước hết tin vui ấy phải là niềm hân hoan đích thực, gây xúc động mãnh liệt trong lòng người đi loan báo.

Romano Guardini đã ví von : “Sống niềm tin nghĩa là đơn phương nhường chỗ cho Đức Kitô tự biểu lộ và lớn lên trong cuộc sống chúng ta“.

*

Lạy Chúa, theo Chúa không phải dễ dàng vì Chúa đòi chúng con phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi, và từ bỏ chính mình. Nhưng có Chúa cùng đồng hành chúng con vẫn sáng mãi niềm tin. Xin giúp chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen.(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

*6. Một câu hỏi bất ngờ

Chuyện này kể về một vị rabbi thánh thiện. Trong tỉnh của ông, những nhà giàu ở một vùng biệt lập nên phải thuê người canh gác ban đêm.

Một đêm kia vị rabbi trên đường về nhà thì gặp một người gác dan đang đi tới đi lui. Vị rabbi hỏi : “Anh đang làm việc cho ai vậy ?” Người gác dan không trả lời mà hỏi lại : “Thế ông đang làm cho ai vậy ?” Câu hỏi quá bất ngờ, xưa nay vị rabbi chưa hề nghĩ đến. Vì thế ông bối rối đáp “Tôi không làm việc cho ai cả”. Nhưng trả lời xong ông còn bối rối thêm. Thế là hai người cứ im lặng đi tới đi lui bên nhau. Một lúc sau, vị Rabbi hỏi người gác dan : “Anh có muốn làm việc cho to không ?”. Người gác dan cũng đáp lại bằng một câu hỏi : “Nhưng ông mướn tôi để làm gì ?” Vị rabbi trả lời : “Để thỉnh thoảng ông lại hỏi tôi câu hồi này : “Ông đang làm việc cho ai vậy ?”.

Đó cũng là câu chúng ta phải thỉnh thoảng hỏi chính mình : “Tôi đang làm việc cho ai vậy ?” (Flor McCarthy)

*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng là những việc mà người Kitô hữu chúng ta phải thực hiện suốt đời. Chúng ta hãy sốt sắng xin Chúa giúp chúng ta.

1). Hội thánh còn đang hành trình trên trần gian thì còn có nhiều gương xấu / Xin cho những người đang làm gương xấu trong Hội thánh biết ăn năn sám hối.

2). Nhìn trong thế giới và trong xã hội chúng ta hôm nay / có nhiều người xấu và việc xấu / Xin cho họ biết nhận ra những hậu quả tai hại của các việc xấu họ làm / để họ thật lòng ăn năn sám hối

3). Có nhiều người đang là nạn nhân của những người xấu và việc xấu / xin cho họ biết tin tưởng ở Tin mừng để được nâng đỡ và ủi an.

4). Chính trong cộng đồng giáo xứ của chúng ta, còn nhiều người làm những việc xấu / Xin cho họ biết ăn năn sám hối và trở về với Tin mừng của Chúa.

Chủ tế  : Lạy Chúa là Cha hay thương xót, Chúa đã đánh động cả một thành lớn để họ ăn năn hối cải, xin Chúa cũng đánh động mỗi người chúng con để chúng con biết thật lòng sám hối. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…

*VI. TRONG THÁNH LỄ

– Trước kinh Lạy Cha : Hợp lòng hợp ý với tất cả những người được Chúa kêu gọi, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha.

– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con lắng nghe những tiếng gọi của Cha, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”

*VII. GIẢI TÁN

Chúa kêu gọi mỗi người chúng ta làm tông đồ của Chúa giữa trần gian. Cũng như Giona, cũng như Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan, chúng ta hãy hăng hái vào đời thi hành nhiệm vụ Chúa giao

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN -B

SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG- Lm. Đan Vinh

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

*I. HỌC LỜI CHÚA

*1. TIN MỪNG: Mc 1,14-20

(14) Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. (15) Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. (16) Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-mon với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. (17) Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. (18) Lập tức hai ông bỏ chài lưới đi theo Người. (19) Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. (20) Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.

*2. Ý CHÍNH:

Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng giảng đạo tại xứ Ga-li-lê mà nội dung được tóm gọn trong câu: “Thời kỳ đã mãn và Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Người cũng gọi bốn môn đệ tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng là hai đôi anh em: Si-mon và An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an. Các ông đã mau mắn đáp lại bằng sự dứt khoát từ bỏ nghề cũ, từ giã cha già mà theo làm môn đệ của Người.

*3. CHÚ THÍCH:

– C 14-15: + miền Ga-li-lêdo vua Hê-rô-đê An-ti-pa cai trị, là một miền đất trù phú và có đông dân ngoại sinh sống. Khi khởi sự thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng tại Ga-li-lê miền đất có đông dân ngoại, cho thấy tính phổ quát của Tin Mừng của Người. +Anh em hãy sám hối và tin vào Tin MừngSám hối là loại bỏ nếp sống cũ tin thờ tà thần và thay bằng nếp sống mới theo Đức Chúa là Đấng trọn lành. Đức Giê-su kêu gọi dân chúng phải ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng do Người loan báo.

– C 16-18: + Biển hồ Ga-li-lêCũng gọi là hồ Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1), hay Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1). Biển hồ này rất lớn hình quả trám, dài 21 cây số và ngang 12 cây số, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải tới 208 mét. Đây là nơi Đức Giê-su đã kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên và nhiều lần Người giảng dạy dân chúng tại ven biển (x. Lc 5,3). Người cũng làm nhiều phép lạ tại biển hồ này : dẹp yên sóng gió (x. Mt 8,23-27), đi trên mặt nước (x. Ga 6,16-21) mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-11)… + Ông Si-mon với người anh là An-rêÔng Si-mon sau được Đức Giê-su đổi tên là Phê-rô (x. Mt 16,18). Ông là em ông An-rê và là con ông Giô-na (x. Mt 16,17) hay Gio-an (x. Ga 1,42). Ông Si-mon quê thành Bét-sai-đa (x. Ga 1,44), làm nghề lưới cá tại biển hồ Ga-li-lê (x. Mc 1,16). + Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo NgườiHai anh em An-rê và Si-mon đã mau mắn đáp lại tiếng gọi của Đức Giê-su, bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo làm môn đệ Người.

– (C 19-20) + Ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an: Đây là Gia-cô-bê Tiền, vì theo Đức Giê-su trước. Ông là con của ông Dê-bê-đê và là anh của Gio-an (x. Mt 4,21). Ông là một trong nhóm 3 người, được Đức Giê-su ưu ái (x. Mt 17,1). Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an cũng được Đức Giê-su đặt cho biệt danh là “Bo-a-nê-ghê”, nghĩa là “Con của Thiên Lôi” (x. Mc 3,17). + Bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền mà đi theo Người: Hai ông đã dứt khoát đáp lại tiếng Chúa mời gọi bằng việc từ giã gia đình để dấn thân  theo làm môn đệ của Đức Giê-su.

*4. CÂU HỎI: 1) Ga-li-lê là miền nào trong nước Do thái thời Đức Giê-su? 2) Lời kêu gọi “sám hối và tin vào Tin Mừng” của Đức Giê-su có ý nghĩa thế nào? 3) Đặc điểm của Biển Hồ Ga-li-lê là gì? 4) Bạn biết gì về thân thế của ông Si-mon Phê-rô? 5) Hai anh em An-rê và Si-mon đã đáp trả lời mời gọi của Đức Giê-su thế nào? 6) Bạn biết gì về thân thế của hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an? Tại sao hai ông này lại có biệt danh là “con của thiên lôi”? 7)Thái độ của hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đáp trả lời mời gọi của Đức Giê-su thế nào?

*II. SỐNG LỜI CHÚA

*1. LỜI CHÚA: Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).

*2. CÂU CHUYỆN:

1) KHÔNG SÁM HỐI SẼ KHÔNG ĐƯỢC ƠN THA THỨ:

Một hôm Xa-tan kêu trách Thiên Chúa rằng: “Chúa thật bất công! Cụ thể là có nhiều kẻ phạm đủ thứ tội ác, thế mà Ngài vẫn tha cho chúng. Có nhiều kẻ sa đi ngã lại nhiều lần cùng một thứ tội, mà khi chúng ăn năn sám hối thì Ngài vẫn tha cho chúng. Còn tôi, chỉ phạm tội không vâng lời một lần, thế mà Ngài lại phạt tôi phải sa hỏa ngục đời đời, và không bao giờ tha thứ cho tôi!”. Bấy giờ Thiên Chúa mới ôn tồn nói với tên quỉ rằng: “Sở dĩ Ta tha tội cho con cái loài người vì chúng đã khiêm tốn tự nhận là kẻ có tội, đã hồi tâm sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống. Còn ngươi, từ khi phạm tội kiêu ngạo không vâng lời Ta và bị phạt trong lửa hỏa ngục đến nay, có khi nào ngươi khiêm nhường nhận lỗi và hồi tâm sám hối xin Ta tha thứ hay chưa?”. Tên quỷ nghe vậy liền vênh mặt lên cười khẩy và trả lời như sau: “Hồi tâm sám hối ư? Ta đâu có tội gì để phải ăn năn sám hối ? và ta cũng chẳng cần ai phải tha thứ  cho ta !”

2) PHẢI ĂN NĂN SÁM HỐI VỚI LÒNG CẬY TRÔNG:

Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tu sĩ kia đã phạm tội và bị phạt phải vào sa mạc để ăn chay đền tội trong một năm trời, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các anh em của cộng đoàn đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe mạnh; còn người kia thì ốm o xanh xao. Cả hai được đòi phải đến trình diện trước mặt Bề Trên và ban cố vấn cộng đoàn để được phán quyết có đáng được tái hòa nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong năm qua đã suy niệm về điều gì?

Người ốm o xanh xao trả lời:

– Trong năm qua, ngày ngày con luôn nhớ lại những tội con đã lỗi phạm và những hình phạt đáng phải chịu, nên con luôn mang tâm trạng sợ hãi không sao chợp mắt được.

Đến lượt người vui vẻ khỏe mạnh trả lời:

– Suốt một năm qua, từng giây từng phút, con luôn cảm tạ Chúa vì Người đã tha thứ cho con nên con luôn vui vẻ lúc nào cũng ca tụng Chúa và ăn ngon ngủ yên.

Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã trở thành lời ca tụng và cảm tạ tri ân tình yêu của Chúa.

3) GƯƠNG SÁNG TỪ BỎ MỌI SỰ ĐỂ CHUYÊN LO VIỆC NHÀ CHÚA:

Bà Thánh JEANNE-FRANCOISE CHANTAL (1572-1641) là một bà mẹ rất đạo đức. Sau khi chồng qua đời, bà lo nuôi dạy và lo liệu cho bốn đứa con nên người. Sau khi cả bốn người con đều lập gia đình và có cuộc sống ổn định, bà đã được Chúa kêu gọi hãy tận hiến cuộc đời còn lại để phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật. Nhưng đến ngày từ giã gia đình lên đường thì cả bốn người con đều không đồng ý cho mẹ đi. Họ khóc lóc và nằm chận ở cửa nhà. Bấy giờ trong nước mắt nghẹn ngào, bà nói với các con : “Mẹ tuy là mẹ phải lo cho các con, nhưng mẹ cũng là con của Chúa phải lo việc nhà Chúa. Mẹ phải chu toàn bổn phận phụng sự Người đang hiện thân trong những người nghèo khổ bất hạnh». Nói xong bà đã bước qua các con để đi đến An-ne-cy, tiến hành việc thành lập một dòng tu. Đến tháng 6 năm 1610, dòng Thăm Viếng đã ra đời.

4) MỖI TÍN HỮU PHẢI TRỞ THÀNH ĐÔI TAY CỦA CHÚA:

Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và sự tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi tay quân đội Đức quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng minh đã cố gắng phục chế bức tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã bị bể tan tại quảng trường trước một nhà thờ nhỏ, là trung tâm sinh hoạt của một ngôi làng ở miền cực nam nước Ý.

Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn ráp lại hầu như toàn bộ bức tượng. Nhưng chỉ còn đôi tay của bức tượng là chưa thể hoàn tất do đã bị nát vụn. Sau nhiều giờ bàn luận và việc phục chế bức tượng sắp đi vào ngõ cụt, thì một người trong toán lính đã có sáng kiến. Anh ta mang tới hai khúc gỗ gắn vào hai tay của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ không những đã đánh động tâm hồn của dân làng, mà còn thu hút nhiều khách du lịch đến thăm. Hàng chữ ấy như sau: “Bạn chính là đôi tay của Chúa”.

Thực vậy, mỗi tín hữu chúng ta phải trở thành đôi bàn tay của Chúa, tiếp tục chu toàn sứ mạng được Chúa Cha trao phó là xây dựng Nước Trời, là loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa đi khắp thế gian, đến tận cùng bờ cõi trái đất.

5) SỨC MẠNH CỦA LÒNG TỰ TIN:

Một cậu học sinh kia luôn mang mặc cảm vì trên lưng có hai vết thẹo nhăn nhúm trông rất khó coi, kéo dài từ bả vai xuống đến eo lưng. Mỗi ngày khi đi học ở trường, cậu rất lo bị bạn bè phát hiện ra hai vết sẹo và chế nhạo… Nhưng rồi một ngày nọ, một số bạn bè cùng lớp đã tình cợ nhìn thấy vết sẹo trên lưng cậu bé và lên tiếng trêu chọc: “Eo ơi, ghê quá!” “A,…quái vật!” “Ôi, thật khủng khiếp!” Những lời vô tâm ấy đã làm đau lòng cậu bé. Cậu vừa khóc vừa chạy vào núp sau cánh cửa lớp. Rồi từ hôm đó cậu bé không dám đi học vì sợ bị lũ bạn chọc quê.

Sau khi hỏi han và biết được sự việc, mẹ cậu bé đã dắt con đến gặp cô giáo chủ nhiệm, vốn là một nữ giáo viên khôn ngoan và đôn hậu. Bà mẹ cho cô giáo xem vết sẹo của con và cho biết từ lúc mới sinh, cậu bé đã mắc khối u ở lưng. Qua cuộc giải phẫu khó khăn, cậu đã được chữa lành, nhưng đã để lại hai vết thẹo lớn trên lưng. Nói đến đó, người mẹ đã bật khóc.

Ngày hôm sau, cậu bé tiếp tục đến trường ngồi ở bàn cuối lớp, các bạn khác thấy thế, lại thốt lên những lời vô tâm: “Ôi, thật đáng sợ!” ; “Ghê quá, trên lưng cậu ấy có 2 con trùn to lắm.” Ngay lúc ấy, cô giáo chủ nhiệm xuất hiện và nghe thấy những lời trêu chọc ác ý, liền tiến lại gần cậu bé, đặt nhẹ tay lên vai nhỏ bé và mỉm cười nói với các bạn bè cùng lớp với câu: “Trước đây nhiều lần cô đã định kể cho các con nghe một câu chuyện về cậu bé này, nhưng có lẽ cô phải kể cho chúng con nghe ngay lúc này.” Các bạn trẻ đến vây quanh cô giáo. Cô nhẹ nhàng kéo chiếc áo của cậu bé lên làm lộ rõ hai vết thẹo lớn và nói với đám trẻ như sau:

“Đây là một truyền thuyết. Ngày xưa, các thiên thần trên trời đã bay xuống và hóa thân thành các bạn nhỏ như chúng ta đây. Tất nhiên, có thiên thần nhanh nhẹn đã kịp tháo gỡ đôi cánh của mình khi hóa thân thành người. Nhưng cũng có thiên thần hơi chậm, không kịp tháo hết đôi cánh của mình và đã để lại hai vết sẹo như trên lưng em này.”

Một em hỏi: “Vậy đó là cánh của thiên thần hả cô?” Cô giáo mỉm cười: “Đúng rồi!” Một bạn gái khác lên tiếng: “Thưa cô, chúng con có thể sờ được không?” Từ nãy đến giờ cậu bé vẫn đứng ngẩn người ra không nói được câu nào, và bây giờ thì cậu lại khóc. Nhưng cô giáo đã mỉm cười và diụ dàng nói: “Chúng ta phải xin phép vị thiên thần nhỏ của chúng ta trước đã phải không ?” Sau một lát chần chừ, cậu bé đã lấy lại sự bình tĩnh và đáp: “Vâng, được ạ ! Thưa cô. »

Các bạn nhỏ khác đều vây quanh cậu bé, hết bạn này đến bạn khác đến sờ vào “đôi cánh” ấy. “Ôi, tuyệt thật. Hôm nay con đã sờ được vào cánh của thiên thần rồi!”

Năm tháng dần trôi, người bạn nhỏ của chúng ta đã lớn lên thành người trưởng thành. Cậu vẫn thầm cảm ơn cô giáo đã đem lại cho cậu một niềm vui và một nghị lực mới. Cậu đã mạnh dạn đăng ký tham gia giải bơi lội học sinh cấp thành phố, và cậu đã đoạt giải. Cậu thầm cám ơn cô giáo, và cậu xác tín rằng vết thẹo trên lưng cậu thực là đôi cánh thiên thần mà cô giáo năm xưa đã tặng cho cậu với tất cả tình thương.

Câu chuyện trên cho thấy cô giáo đã thay đổi cái nhìn của học sinh của mình, nên đã biến đổi số phận của cậu học sinh có vết sẹo lớn ở lưng: Cậu đang bị mặc cảm tự ti đã tự tin và thành công trong cuộc sống… Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã kêu gọi bốn môn đệ từ bỏ nghề chài lưới bắt cá trở thành tông đồ học nghề chài lưới các linh hồn. Người cũng kêu gọi chúng ta đi theo làm môn đệ để trở thành những vị sứ giả đi loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người.

*3. SUY NIỆM:

1) Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng:

Lời đầu tiên Đức Giê-su công bố khi khởi đầu sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời là: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đức Giê-su đã nối kết việc sám hối với việc rao giảng Tin Mừng. Sám hối chính là điều kiện phải có để đón nhận ơn Chúa, giống như trước khi bước vào mùa mưa, người nông dân phải làm vệ sinh lau chùi các lu vại sạch mọi bụi bẩn để có nước mưa dùng cho cả năm. Sám hối không nhất thiết kèm theo thái độ buồn sầu, nhưng là sự biến đổi tâm hồn để gặp được Chúa, lắng nghe lời Chúa để tin yêu Chúa và giới thiệu Người cho tha nhân.

2) Mau mắn đáp lại ơn kêu gọi của Chúa:

– Bài đọc trong sách ngôn sứ Giô-na hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Chúa kêu gọi ông Gio-na làm ngôn sứ và sai ông đi giảng cho dân thành Ni-ni-vê hồi tâm sám hối tội lỗi để tránh bị trừng phạt. Lúc đầu Gio-na sợ trách nhiệm nên đã lên thuyền đi về hướng khác. Nhưng con thuyền đã gặp bão lớn, Gio-na bị quăng xuống biển và bị một con cá lớn nuốt vào bụng, rồi sau ba ngày nó nhả ông nằm trên bãi biển gần thành Ni-ni-vê. Giô-na đã vâng lời Chúa tiến vào thành phố đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá huỷ”. Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó (x. Gn 3,3-5.10).

– Tin Mừng hôm nay thuật lại việc  Đức Giê-su kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên. Một là đôi anh em An-rê và Simon đang thả lưới dưới biển; Hai là đôi anh em Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới trên thuyền. Các ông nghe lời Chúa kêu gọi đã mau mắn bỏ nghề đánh cá, bỏ lại cha già và những người làm công trên thuyền để đi theo làm môn đệ Chúa Giê-su.

– Ngày nay, Chúa Giê-su cũng kêu gọi các tín hữu chúng ta theo làm môn đệ Người bằng nhiều cách khác nhau: Người thì được Chúa gọi khi nghe một bài giảng trong thánh lễ; Người thì cảm phục gương sáng tốt lành, nghe lời khuyên của một linh mục hay một nữ tu thân quen; Người thì được ơn Chúa gọi sau một biến cố như cơn bệnh nặng, sau một thất bại, sau khi bị lừa đảo, ….

Còn chúng ta, sau khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, chúng ta sẽ đáp lại thế nào: Lảng tránh trách nhiệm như ông Giô-na, hay mau mắn đáp lại như ông Sa-mu-en, sẵn sàng từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa như bốn môn đệ trong Tin Mừng hôm nay ?

3) Tầm quan trọng của việc loan báo Tin Mừng:

Nếu thế giới được thu gọn thành một ngôi làng có 100 người, thì chúng ta sẽ dễ hình dung ra các thành phần trên thế giới theo lỷ lệ tương ứng như sau:

– Về dân số: 57 người thuộc Á Châu, 21 người thuộc Âu Châu, 8 người thuộc Phi Châu và 14 người thuộc các châu lục khác như Mỹ châu, Úc châu và châu Đại Dương.

– Về màu da: 30 người là da trắng; 70 người là da màu như da vàng, da đỏ, da đen.

– Về tôn giáo: 30 người là Kitô hữu gồm Công Giáo, Tin lành, Chính Thống, Anh giáo; 70 người thuộc các tôn giáo khác như Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, thần đạo hay không theo tôn giáo nào.

– Về của cải vật chất: 50 phần trăm của cải sẽ do 6 nhà tỷ phú, đều là người Mỹ chiếm hữu.

– Về trình độ tối thiểu: 70 người mù chữ không biết viết biết đọc.

– Về đời sống: 50 người thiếu ăn, bị suy dinh dưỡng.

– Về nhà ở : 80 người ở nhà ổ chuột không đủ tiêu chuẩn hay lang thang không nhà.

– Về văn hóa: Chỉ có một người là tốt nghiệp đại học!

Thực trạng nói trên cho thấy nhu cầu cấp bách của việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Vậy mỗi tín hữu chúng ta sẽ chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng như thế nào?

4) Chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng:

– Mau mắn đáp lại ơn Chúa kêu gọi: Đức Giê-su đã kêu gọi các môn đệ đi theo Người làm việc tông đồ: « Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1,17). Các ông đã lập tức bỏ nghề, bỏ cha già mà đi theo làm môn đệ Người.

– Loan báo Tin Mừng bằng lời nói và việc làm: Không những bằng việc rao giảng, mà còn bằng việc làm chứng nhân cho Chúa (x Cv 1,8), tích cực góp phần kiến tạo « Trời Mới Đất Mới » từ việc tu sửa bản thân, góp phần xóa bỏ các tệ nạn và bất công trong xã hội, xây dựng cho gia đình và khu phố ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn theo ý Chúa muốn.

– Tin cậy vào sự trợ giúp của Chúa : Trước sứ mạng được Chúa trao phó, thay vì sợ hãi thoái lui như ngôn sứ Gio-na xưa, chúng ta hãy tin cậy phó thác vào ơn Chúa giúp như câu chuyện tông đồ Si-mon thả lưới bắt cá khi xưa. Bấy giờ Đức Giê-su bảo Si-mon : “Hãy ra khơi thả lưới bắt cá ». Si-mon thú nhận sự bất lực của mình rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc.5,5). Chính nhờ ơn Chúa, mà Si-mon đã bắt được nhiều cá, đến nỗi lưới hầu như bị rách. Qua đó cho thấy: về phạm vi đức tin: Nếu ta làm theo ý riêng sẽ bị thất bại. Nhưng nếu làm theo ý Chúa, chắc ta sẽ thành công như Si-mon xưa.

*4. THẢO LUẬN:

Trong những ngày này, mỗi người chúng ta cần làm gì cụ thể để giới thiệu Chúa cho các người thân trong gia đình, cho bà con lối xóm, và góp phần biến đổi môi trường sống và làm việc ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn?

*5. LỜI CẦU:  

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Từ hôm nay con xác tín rằng: Chúa chính là chủ cuộc đời chúng con và con quyết tâm sẽ yêu mến Chúa trên hết mọi sự, sẵn sàng chọn Chúa hơn chọn tình cảm gia đình ruột thịt, hơn chọn công ăn việc làm theo sở thích chúng con… Xin cho chúng con ý thức sứ mạng phải tích cực làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.

Để chu toàn sứ mạng, xin cho chúng con biết năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa, chu toàn các công tác bác ái như: đi thăm bà con lương dân, chia sẻ tiền bạc vật chất cho những người nghèo khó, khiêm tốn phục vụ những người bệnh tật neo đơn, an ủi động viên những người đau khổ bất hạnh… Xin cho chúng con biết cảm thông với Hội Thánh bằng cách cộng tác với các vị chủ chăn đưa nhiều chiên lạc về với Chúa và Hội thánh, vì xác tín rằng: chỉ mình Chúa mới thực là niềm vui và là hạnh phúc cho cuộc đời chúng con.

*X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

ĐỔI MỚI CUỘC ĐỜI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt

Nhiều lần đài phát thanh, truyền hình, trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương trình hoạt động của anh Thảo Đàn ở thành phố Hồ chí Minh. Trước đây, Thảo Đàn là một trẻ của đường phố, bỏ nhà đi lang thang bụi đời, tệ hơn nữa, vướng vào nghiện hút. Nhưng khi hiểu được tác hại của ma tuý, anh quyết tâm cai nghiện. Với ý chí cương quyết, anh đã hoàn toàn dứt bỏ được ma tuý. Chừa được ma tuý rồi, anh không chỉ hài lòng với việc làm lại cuộc đời cho bản thân, nhưng còn muốn dùng kinh nghiệm của mình để giúp đỡ các trẻ em đường phố. Với sự hỗ trợ của Nhà Nước và các tổ chức từ thiện, anh mở ra một trung tâm qui tụ 200 trẻ em đường phố. Tại đây, anh giáo dục cho các em hiểu biết những nguy hiểm đang rình rập các em, giúp các em bảo vệ quyền lợi của mình và nhất là tìm cách đưa các em hội nhập vào đời sống xã hội.

Điều mà Thảo Đàn đã làm cho bản thân mình và đang muốn làm cho các trẻ em đường phố, đó là đổi mới đời sống. Không biết anh có đạo hay không, nhưng anh đang thực hiện Lời Chúa trong các bài sách thánh hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Gio-na kêu gọi dân thành Ninivê đổi mới đời sống để được tha thứ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kêu gọi dân Do thái đổi mới đời sống để đón nhận Nước Chúa đang đến. Đáp lại lời Người, các môn đệ bước theo Đức Giêsu trong một đời sống mới. Cuộc đổi mới được tiến hành qua ba bước.

Bước thứ nhất: Nhận biết mình tội lỗi.

Tội lỗi như một cơn mê làm ta đắm đuối không nhận biết tình trạng tâm hồn của mình. Muốn đổi mới, cần phải thức tỉnh, nhìn rõ sự thực về mình, thấy rõ tình trạng tội lỗi, hiểu biết sự nguy hại của tội. Thảo Đàn bừng tỉnh sau những lầm lỡ, nhận thức mình đang đứng bên bờ vực thẳm, nên đã kịp dừng chân. Dân thành Ninivê, sau khi nghe tiên tri Giona rao giảng, ý thức về tình trạng nguy ngập của thành, nên đã chấm dứt tình trạng tội lỗi. Để biết rõ tình trạng tâm hồn, để nhận biết tội lỗi, cần phải siêng năng xét mình. Xét mình giống như ngọn đèn pha soi vào tất cả những ngõ ngách trong tâm hồn, phơi bày ra tất cả những gì còn ẩn giấu. Xét mình giống như cái cuốc đào bới những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn để lộ ra những tội lỗi còn bị thời gian, sự quên lãng và sự vô tình vùi lấp.

Bước thứ hai: Sám hối.

Khi đã nhận biết tội lỗi, tâm hồn phải tiến tới một thái độ tích cực hơn, đó là sám hối. Nhận thức tội lỗi giống như ta nhìn thấy một căn nhà rác rưới bẩn thỉu. Sám hối là bắt tay vào quét dọn sạch sẽ. Sám hối như giòng nước gột rửa linh hồn. Sám hối như chiếc dao mổ của bác sĩ cắt bỏ những ung nhọt gieo mầm mống bệnh tật. Sám hối càng mãnh liệt, tội lỗi càng lùi xa. Sám hối càng sâu xa, linh hồn càng mau chóng hồi sinh. Nhờ sám hối sâu xa, Thảo Đàn đã từ bỏ con đường nghiện ngập. Nhờ sám hối mãnh liệt, dân thành Ninivê đã bảo nhau, từ người già đến em bé đều xức tro, ăn chay cầu nguyện, quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi. Tâm hồn sám hối là tâm hồn được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận ơn Chúa.

Bước thứ ba: Đổi mới cuộc đời.

Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để bước vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa lại những lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi mới,trong sạch hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới, Thảo Đàn không chỉ tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đâú tranh chống tệ nạn xã hội. Vì muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ bỏ nếp sống cũ, từ giã những người thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi theo Chúa. Con đường mới là con đường theo thánh ý Chúa, con đường dẫn ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Tình yêu mến sẽ làm cho đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem lại những hoa quả thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được Nước Chúa đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa đến với anh em.

Đầu năm mới, ai cũng có ước mong mọi sự mới mẻ. Không gì đẹp hơn một tâm hồn đổi mới. Để đổi mới tâm hồn, ta hãy nhận biết tội lỗi và ăn năn sám hối. Với ơn Chúa giúp và với quyết tâm đổi mới, ta sẽ nhìn thấy những việc cần phải làm. Với những việc làm do Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta sẽ thực sự bước vào Năm Mới với cả tâm hồn đã được đổi mới.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài của chúng con.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: “Quả thật, Đức Giê su là người bạn khó tính nhất. Người chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Người.” Hiện nay, Đức Giê su đang mời bạn chinh phục những đỉnh cao nào?

2) Để đổi mới cuộc đời, bạn phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn. Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn…..).

3) Chừa bỏ tật xấu có dễ không? Ta nên có thái độ nào đối với người nghiện hút, rượu chè?

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- A

THỜI GIAN ĐÃ MÃN, NƯỚC THIÊN CHÚA ĐÃ GẦN ĐẾN-  Lm. Phêrô Lê Văn Chính

Lời công bố của Chúa Giêsu trong khởi đầu Tin mừng theo Máccô là lời công bố triều đại Nước Thiên Chúa gần đến và hãy sám hối và tin vào Tin mừng. Lời công bố này vẫn được nhìn nhận như là lời công bố trung thực và chính yếu của Chúa Giêsu khi bắt đầu rao giảng Tin mừng. Nước Thiên Chúa là đề tài chính yếu trong lời rao giảng của Chúa Giêsu, và đồng thời với việc rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu bắt đầu kêu gọi những môn đệ đầu tiên để huấn luyện họ cách đặc biệt để họ sẽ là những người đón nhận Tin mừng nước Thiên Chúa và tiếp nối công việc rao giảng của người. Giữa lời công bố triều đại Nước Thiên Chúa và việc sám hối để tin vào Tin mừng có liên hệ mật thiết với nhau. Triều đại Nước Thiên Chúa được khai mở với lời rao giảng Tin mừng của con Thiên Chúa nhập thể làm người và mời gọi mọi người sám hối. Đón nhận lời rao giảng Tin mừng  thì cũng bắt đầu thực hành sám hối để đón nhận Nước Thiên Chúa được ban tặng. Ngoài ra bài Tin mừng cũng cho chúng ta thấy hình ảnh những môn đệ đầu tiên đã đi theo Chúa Giêsu và chính họ sẽ trở nên những người đón nhận Tin mừng cách cụ thể và khai mào cho thế hệ những người tín hữu sẽ đón nhận lời rao giảng Tin mừng và tham dự vào Nước Thiên Chúa để rồi họ sẽ là những người tiếp nối thầy của mình để rao giảng về Nước Thiên Chúa cho mọi người.

Nước Thiên Chúa và Tin mừng là những thực tại mới mẽ và cấp bách. Tính mới mẽ và cấp bách của những thực tại này là do bởi phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa có sức mạnh cứu độ, ban tặng sự sống thần linh cho con người và lôi kéo con người ra khỏi vực thẳm sự chết đang vây bọc họ. Vào thời Chúa Giêsu khai mạc sứ vụ rao giảng của người, những người do thái quan niệm Nước Thiên Chúa một cách cụ thể và vật chất. Họ quan niệm phần nào như một nước trần gian, trong đó con người có thể hưởng bình an hạnh phúc với những quyền lợi vật chất. Hoặc theo các tiên tri, nước Chúa là lúc mà Thiên Chúa thực thi công bằng, luận phạt những người tội lỗi. Trong khi đó, Chúa Giêsu bắt đầu nhẫn nại rao giảng Nước Chúa, kêu gọi các môn đệ. Người   bắt đầu thực thi việc rao giảng, đi đến với mọi người mọi nơi qua các thành thị và làng mạc, chữa lành mọi bệnh tật, xua trừ ma quỉ để biểu lộ sức mạnh cứu độ của Nước Thiên Chúa, sức mạnh chữa lành và tha thứ của Nước Thiên Chúa, không ồn ào, nhưng âm thầm mạnh mẽ như chút men người đàn bà trộn trong đấu bột, như hạt cải bé nhỏ sẽ trở thành một cây lớn chim trời đến nương náu.

Câu chuyện của bài đọc sách tiên tri Giona cho chúng ta hình ảnh của tính cấp bách của việc sám hối và tin vào lời rao giảng. Dân thành Ninivê tội lỗi nên Chúa sai tiên tri đến rao giảng cho họ. Thành phố này rộng bằng ba ngày đường, tiên tri Giona đến rao giảng còn bốn mươi ngày nữa Ninivê sẽ bị phá hủy. Dân thành nghe lời giảng, họ ăn năn sám hối, từ người lớn đến trẻ nhỏ và Chúa nguôi cơn giận và ngài đổi ý định phạt họ. Câu chuyện khá vắn tắt, được Giáo hội dùng để dẫn vào chủ đề của chúa nhật tuần ba này. Điều ngạc nhiên là dân thành Ninivê tội lỗi đã biết nghe lời rao giảng của Giona, và nhờ đó họ đã được tha thứ. Chúng ta cần ở trong tâm trạng của những người dân thành Ninivê để hiểu tầm vóc của vấn đề. Đây là lúc khẩn trương thực sự, chỉ còn bốn mươi ngày nữa thì Ninivê sẽ bị phá hủy. Hiểu được sự cấp bách của sứ điệp sám hối và tin tưởng vào lời rao giảng của vị tiên tri, người dân thành Ninivê đã có sự sáng suốt tỉnh táo thay đổi đời sống và nhờ đó tồn tại và Chúa đã nguôi cơn giận không phạt họ nữa.

Khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng, đó cũng là lúc Gioan tẩy giả bị bắt. Chúa Giêsu đối diện với những nguy hiểm của tình hình chính trị đang diễn ra nhưng người bình tĩnh rao giảng Tin mừng với lời nhắc nhở rất thôi thúc : « thời gian đã mãn, nước Thiên Chúa đã đến gần, anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng ». Chúng ta đang đối diện với sự khẩn trương của thời gian theo dự định cứu độ của Thiên Chúa. Lời rao giảng của Chúa Giêsu cũng là lời rao giảng hối thúc  đặt con người trước triều đại Nước Thiên Chúa đang đến. Vì Nước này đang đến gần, mọi người phải chuẩn bị sẵn sàng chính mình để đón nhận. Việc chuẩn bị xứng đáng là phải sám hối và Tin vào Tin mừng. Sám hối, đó là việc thay đổi lòng trí và ý chí của con người, có can đảm từ bỏ con người cũ với những đam mê tội lỗi để đi theo Chúa Giêsu. Khi tin vào Tin mừng Chúa Giêsu rao giảng, Lời Chúa sẽ lần hồi huấn luyện, làm cho những người tin trở nên những con người xứng đáng đón nhận Nước Thiên Chúa và Tin mừng cứu độ càng lúc càng hơn.

Để thực hiện cụ thể sứ điệp rao giảng, Chúa Giêsu kêu gọi và tuyển chọn những môn đệ đầu tiên. Khi đi dọc bờ biển Galilêa, Chúa Giêsu thấy hai anh em Simon và Anrê đang thả lưới xuống biển, Người kêu gọi họ và họ đã đi theo người. Sau đó người gặp hai anh em khác là Giacôbê và Gioan đang xếp lưới trong thuyền, người cũng kêu gọi họ, và họ đã bỏ cha và những người làm công lại để đi theo người. Câu chuyện nhấn mạnh lời mời gọi của Chúa Giêsu và thái độ dứt khoát của bốn môn đệ đầu tiên. Chúa Giêsu mời gọi họ theo người và người hứa sẽ thay đổi nghề nghiệp của họ, làm cho họ không chỉ là những người chài lưới cá, nhưng sẽ là những người chài lưới người. Công việc của họ sẽ quan trọng và có giá trị lớn lao hơn nhiều so với công việc đánh cá mà họ đang làm. Phần các môn đệ đầu tiên này, các ông đã lập tức bỏ mọi sự mà theo người. Các ông không chần chờ, không tiếc nuối nghề nghiệp, công việc làm ăn sinh sống, ngay cả lìa bỏ cha già và các bạn đồng nghiệp để lập tức đi theo Chúa.

Thánh Phaolô có cách nhìn thời gian đối chiếu với Lời rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu thực hiện và ban tặng. Khác với những cách nhìn trần thế từ những lối suy tư triết học về thời gian có tính chất bền vững và đều đặn của nó, hết xuân hạ thu đông, rồi lại trở lại với chu kỳ hằng năm và con người cứ an nhàn hưởng thụ cuộc sống với việc mua sắm, dựng vợ lấy chồng. Thánh Phaolô nhìn thời gian đối chiếu với lời loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa, và vì thế, thời gian trở nên khẩn cấp và vắn vỏi, vì Nước Chúa đã đến gần, mọi người phải sẵn sàng trước lời mời gọi lắng nghe Tin mừng của Thiên Chúa. Vì lời mời gọi khẩn thiết này, mọi người phải biết từ bỏ nhịp sống bình thường của mình để hướng nhìn về thực tại mới mẽ của Tin mừng Nước Thiên Chúa : ai có vợ hãy ở như không có vợ, ai vui mừng hãy ở như không vui mừng, ai mua sắm hãy ở như không có gì vì bộ mặt thế gian này đang qua đi. Không phải người tín hữu trở nên bi quan và không muốn xây dựng trần thế với những người khác, nhưng người tín hữu trở nên tỉnh táo hơn và lắng nghe lời mời gọi thúc bách của Thiên Chúa hơn để họ biết sống và hưởng dùng những của cải đời này để phục vụ Nước Chúa nhiều hơn.

Lời Tin mừng đã được vang lên thúc bách, và triều đại Nước Thiên Chúa đang đến gần. Chúng ta nghe vang vọng lời này trong những tuần lễ đầu tiên của mùa thường niên năm phụng vụ và thúc đẩy mỗi người có thái độ đáp trả chân thành cho lời mời gọi của Chúa Giêsu : « thời gian đã mãn, Nước Chúa đã đến gần ». Nước Chúa đã đến gần vì Chúa Giêsu đã hiện diện ở trần gian, vì lời hứa tha thứ và đổi mới của Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy can đảm ra khỏi sự chật hẹp của lòng mình. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu đối với các môn đệ là lời mời gọi dứt khoát thúc bách họ can đảm bỏ lại sau lưng mọi công việc, mọi liên hệ tình cảm gia đình và nghề nghiệp để dấn thân theo Chúa Giêsu để đón nhận Nước Trời và lời loan báo Tin mừng. Đối với phần lớn nhiều người chúng ta, chúng ta không phải từ bỏ gia đình cha mẹ hay nghề nghiệp giống như các tông đồ, nhưng cũng là lời mời gọi rất khẩn thiết biết trung tín theo Chúa Giêsu hằng ngày trong những công việc bé nhỏ và bình thường hằng ngày của mình. Chúng ta bắt đầu chu toàn những công việc hằng ngày của mình và luôn tỉnh thức để thực thi Lời rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa của Đức Giêsu.

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

TÔNG ĐỒ CỦA CHÚA– Lm. Joshephus Quang Nguyễn

Tin Mừng hôm nay kể Chúa Giêsu đang đi dọc biển hồ Galilê, thì thấy 4 anh thanh niên có gia đình, có cha mẹ, lại có nghề đánh cá, Chúa Giêsu mời gọi theo các anh hãy theo Ngài, và các anh đã bỏ lại tất cả rồi theo làm tông đồ cho Chúa. Chắc chắn các anh thanh niên này không phải là chủng sinh hay linh mục nhưng các anh chỉ là giáo dân vì họ đã từng quen biết Thầy Giêsu qua việc ông Gioan Tẩy giả đã giới thiệu tuần trước cho nên hôm nay nghe Chúa Giêsu mời gọi các anh kính nể Ngài, sẵn sàng ra đi theo Chúa một cách nhẹ tênh và quyết liệt.

Điều đáng lưu ý rằng điều gì khiến bốn chàng thanh niên này sau khi nghe tiếng Chúa mời gọi, các ông đáp lại ngay và sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thân thiết nhất trong đời sống: nghề nghiệp và những mối liên hệ ruột thịt tự nhiên để chọn Chúa Giêsu, theo Chúa, gắn bó mật thiết với Chúa và làm tông đồ nhiệt thành cho Tin Mừng cứu độ cho đến hết hơi cho đến trọn đời? Thưa, trở lại Tin Mừng Chúa nhật vừa rồi, chúng ta thấy ông Gioan Tẩy Giả thiệu Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian, cho đệ tử của mình là Anrê và Gioan. Hai ông này đã đến xem chỗ ở của Chúa và ở lại với Chúa Giêsu, và cũng từ đó các ông đã thấy tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đến trần gian phục vụ cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa: rao giảng Nước Trời, chăm sóc người ốm đau bệnh tật, tha thứ cho người tội lỗi, cho kẻ chết sống lại và chính Ngài hy sinh chịu nạn chịu chết và sống lại để cho con người được sống lại với Người muôn đời.

Chúa Giêsu hôm nay vẫn đi ngang qua đời chúng ta mỗi ngày, Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài. Ngài thấy ta nhưng ta vẫn không hay biết vì ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới là lo cơm áo gạo tiền, mải mê tính xác thịt hay ta vẫn tất bật với những lo toan chuyện đời thường, hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ lý tưởng hay chính lúc ta tưởng cuộc sống mình quá ư ổn định, và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng rồi, cho nên tiếng gọi của Chúa vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát: Hãy theo tôi! Mà tôi không nghe biết. Thế nhưng, Chúa Giêsu vẫn chấp nhận trọn vẹn con người của ta, cả những yếu đuối, thờ ơ và tội lỗi cũng được Ngài kêu gọi và sẵn sàng đón nhận.

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu. Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ. Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống đời này và đời sau. Theo Ngài là chia sẻ với Ngài cùng một sứ mạng, là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài trong công việc cứu độ toàn thế giới. Qủa thế, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được Chúa mời gọi theo Chúa. Cho nên đời sống Kitô hữu không phải chỉ là tin những điều Chúa dạy, giữ những điều răn Chúa và Giáo hội truyền để được rỗi linh hồn mình, nhưng người Kitô hữu được kêu gọi theo Chúa, nghĩa là không phải chỉ là người giữ Đạo, đọc kinh, dâng lễ, nhưng phải là những tông đồ cho Chúa nữa: yêu thương, tha thứ, hy sinh và phục vụ mọi người như Chúa. Cho nên, dù ở bậc sống nào, dù ở bất cứ chỗ nào, chúng ta đều làm tông đồ của Chúa, làm tông đồ trước tiên là bằng chính đời sống thánh thiện, hiền lành, khiêm nhường và tốt đẹp của chúng ta. Vì chưng, đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được nếp sống của những người chung quanh, vì chưng ông bà ta “Lời nói lung lây, gương bày lôi kéo”. Vì vậy, đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được vận mệnh của người khác, từ không biết Chúa đến nhận biết Chúa, tôn thờ, yêu mến Chúa. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể làm cho mọi người từ tị hiềm ghen ghét, thù hần, tội lỗi đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc, nâng đỡ nhau và thánh thiện.

Cụ thể, trong 117 vị Thánh tử Đạo việt nam, có một vị tông đồ Giáo dân, một bà mẹ Công giáo can đảm phi thường, chẳng thua kém các bậc nam nhi, đó là bà thánh Anê Lê Thị Thành, tục gọi là bà thánh Đê. Năm 17 tuổi, cô Lê Thị Thành kết hôn với anh Nguyễn Văn Nhất, người cùng làng. Họ sống với nhau hạnh phúc và sinh được sáu người con. Bà Đê là một người con dâu hiếu thảo, một người vợ hiền thục đảm đang và là một người mẹ rất mực yêu thương con cái. Bà nuôi nấng, dạy dỗ con cái lớn khôn, một lòng sống trung thành với Đạo thánh Chúa. Dưới thời Vua Thiệu Trị, cuộc bách hại Đạo ngày càng quyết liệt, Bà đã bị bắt cùng với cha Galy Lý và một số giáo dân khác. Trong thời gian bị giam giữ, lính tráng đánh đập bà tàn nhẫn, toàn thân bà bầm tím máu. Tuy là phận nữ yếu đuối, nhưng bà đã tỏ ra can đảm cách phi thường, không nao núng, vui vẻ chấp nhận những cực hình tra tấn. Khi con gái vào tù thăm mẹ, khóc lóc khi thấy thân thể bà bầm tím máu, áo bê bết loang lổ vết máu, bà hài hước an ủi: “Con đừng khóc mẹ nữa, mẹ mặc áo hoa hồng thắm đỏ, sao con khóc?” Bà coi những vết máu như vòng hoa khoác lên cổ người chiến sĩ thắng trận khải hoàn. Rồi bà nói với cô: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo anh chị em con săn sóc việc nhà, vững tâm giữ đạo, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên đàng”.

Chúng ta đang sống trong năm phụng vụ mà Hội Đồng Giám Mục kêu gọi mọi thành viên trong gia đình hãy sống thăng tiến đời sống hôn nhân gia đình. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết sống Đạo tốt đẹp, nêu gương sáng cho mọi người, trước tiên cho những người thân yêu trong gia đình bằng đời sống hòa thuận yêu thương nhau, tha thứ, hy sinh và xây dựng hạnh phúc cho nhau trong tình yêu mến Chúa, yêu mến nhau và mọi người chung quanh, đấy mới thật sự là tông đồ đích thực của Chúa, thánh hoá trần thế hôm nay. Amen.

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN-B

PHẨM CHẤT ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ- Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Khi bắt đầu thời kỳ công khai lên đường thi hành sứ vụ, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là tuyển chọn một số môn đệ nòng cốt để tiếp tay và nối gót Người rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.

Đây là một nhiệm vụ vô cùng trọng đại cao cả nhưng đồng thời cũng đầy gian truân và thách thức, thế nên cần phải tuyển cho được những ứng viên phù hợp.

Trong các thành phần dân chúng thời đó, chúng ta thấy nổi bật nhất là các tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Họ là những người ngày đêm ứng trực trong đền thờ lo việc thờ phượng tế lễ Thiên Chúa. Xem ra họ là những ứng viên sáng giá nhất cho công cuộc loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không chọn bất cứ ai trong số các vị ấy làm tông đồ xây dựng Hội Thánh Người.

Kế đó, thành phần Luật sĩ, những người học rộng và thông thạo thánh kinh. Có ai xứng đáng hơn họ trong việc giải thích và loan truyền Lời Chúa? Có ai giàu kiến thức về đạo lý bằng họ? Thế mà Chúa Giêsu cũng không chọn một ai trong số các vị nầy làm tông đồ của Người.

Thành phần thứ ba cũng rất sáng giá là các người biệt phái. Họ giữ luật rất nhiệm nhặt, có đời sống đạo rất nghiêm túc. Những người như thế cũng đáng làm đầu thiên hạ và lãnh đạo người ta. Thế mà Chúa Giêsu cũng không chọn bất cứ người biệt phái nào làm tông đồ cho Người.

Chúa Giêsu cũng không chọn những người có vai vế trong xã hội, những người giàu sang quyền quý làm môn đệ đầu tiên của Người.

Tin Mừng hôm nay cho thấy sự chọn lựa của Chúa Giêsu khiến chúng ta kinh ngạc:

“Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.

Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.”

Chúa Giêsu đã chọn bốn ngư phủ là Simon, An-rê, Gioan, Giacobê, làm môn đệ đầu tiên trong lúc họ đang quăng chài kéo lưới hoặc đang vá lưới trong thuyền. Tại sao?

Các ngư phủ là những người dạn dày sương gió. Họ quen chịu giá lạnh giữa biển khơi; từng trải qua những đêm tối giữa sóng gió trùng khơi; không sợ đói, không sợ rét, không sợ bão tố cuồng phong, không sợ cảnh chơi vơi giữa ba đào sóng gió. Nói chung, họ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ và nghịch cảnh để đạt cho bằng được nguyện vọng của mình.

Họ là những người đầu tiên được Chúa Giêsu chiếu cố và mời gọi làm môn đệ loan Tin Mừng, làm những trụ cột nòng cốt trong công trình xây dựng Hội Thánh.

Điều nầy cho thấy phẩm chất đầu tiên để làm môn đệ Chúa Giêsu là không ngại gian truân, sẵn sàng hy sinh để thực hiện mục tiêu mong muốn.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã kêu gọi chúng con làm tông đồ cho Chúa trong xã hội hôm nay. Xin ban ơn giúp chúng con sẵn sàng vượt khó, dám đương đầu với mọi thách thức và sóng gió như các môn đệ đầu tiên hầu có thể chu toàn trọng trách mà Chúa và Hội Thánh trao phó cho chúng con.

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

NĂM MỚI, NGƯỜI MỚI, TRỜI ĐẤT MỚI-  Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Đức Yêsu rao giảng: “Đã đến thời. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Tết đã đến gần, đây cũng là dịp để mỗi người chúng ta nhìn lại mình trong năm vừa qua, để với năm mới chúng ta trở thành con người mới, bắt đầu một đời sống mới, một con người hạnh phúc với chính mình, dễ thương và quảng đại đối với người khác.

1) Đức nhân thắng số

“Đức nhân thắng số” là không chỉ là câu nói của đa số bình dân, nhưng cả của những người tin vào “tiền định,” tin vào “số mạng” nữa. Câu này có nghĩa: một người ăn ở có đức có nhân, thì sẽ đổi được số mạng của mình. Với những người tin vào “tiền định” hoặc “số mạng,” câu nói này thực hữu ích.

Trong cuộc đối thoại giữa Abraham và Thiên Chúa, người ta thấy chỉ cần mười người công chính có thể cứu được cả một thành phố gian ác đáng bị tru diệt (St.18, 32). Người tốt không chỉ cứu được mình, mà còn cứu được cả người khác nữa. Trong sách Giô-na hôm nay, dân thành Ninive đã đổi được ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền lệnh cho tiên tri Giô-na báo cho dân thành Ninive biết ý định huỷ diệt thành phố của Thiên Chúa, dân không chỉ tin vào lời tiên tri, nhưng còn tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa nữa, nên họ đã sám hối và được cứu. Như vậy, thái độ sống của con người có thể đổi được ý định của Thiên Chúa nữa. Cái “số” bị phạt của dân Sôđôma và dân Ninive, là do hậu quả của những hành vi bất chính của họ. Chính thái độ sống trong quá khứ của họ, mang lại “số phận” cho họ! Và cũng chính thái độ sống “hiện tại” của họ, đổi được “vận số” của họ! Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương nên Ngài chỉ muốn điều tốt cho con người; Ngài chỉ muốn con người sống yêu thương và hạnh phúc. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ tự nhiên, và định cho nó có luật của nó, vật chất có luật vật lý; sinh vật sống theo bản năng, đây cũng là một loại luật của sinh vật; với con người, Ngài ban cho lý trí và ý muốn, để tự do và làm chủ tất cả. Yêu thương là hành vi vượt qua mọi định luật, hành vi yêu thương cứu được chính mình và cứu được người khác nữa. Chẳng hạn, hành vi yêu thương nuôi nấng dạy dỗ một em bé bị bỏ rõi, đổi được đời em bé và còn đổi được đời cả người nuôi em bé đó nữa.

2) Thế giới này đang qua đi

Con người không chỉ bị chi phối bởi luật vật lý tự nhiên, nhưng còn bị chi phối rất nhiều bởi những yếu tố tâm lý. Những hành vi làm vì muốn chứng minh mình trổi trang hơn người khác, những hành vi trả thù, v.v. là những hành vi “nô lệ.” Hận thù không được tha thứ, sẽ nối tiếp và chồng chất hận thù. Những người thực hiện những hành vi này bị nô lệ hoặc bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn “hèn hạ” mà thường họ không ý thức.

Thư của thánh Phao-lô hôm nay nhắc nhở con người một chân lý: thế gian này đang qua đi. Con người được sinh ra, lớn lên, già đi, và chết. Hiện tại, người ta biết mình; nhưng mười năm sau, còn ít người biết mình; một trăm năm sau, e rằng chẳng ai biết mình nữa. Nếu tất cả vật chất đang biến đổi, đang qua đi, thì tại sao người ta lại miệt mài, đam mê đi tìm kiếm vật chất hoặc những thú vui mau qua, hoặc thoả mãn chính mình!

Khi nhắc nhở con người về thực trạng “thế giới này đang qua đi,” thánh Phaolô muốn giúp con người nhận ra sự thật về chính mình, và nhắn nhủ con người hãy đi tìm cái gì cao quý và trường tồn. Như vậy điều quý không hệ nơi vật chất đang qua đi, nhưng là chính con người “vĩnh tồn” của mình. Những hành vi từng ngày làm nên chính con người của mình. Những hành vi yêu thương làm mình trở nên tuyệt vời ngay giữa trần thế đang qua đi này, và cũng làm mình tuyệt vời trong vĩnh cửu nữa.

3) Hãy sám hối và tin vào tình yêu Thiên Chúa.

Đức Yêsu khởi đầu sứ vụ công khai bằng lời rao giảng: “Thời giờ đã đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hành vi sám hối đi liền với hành vi nhận ra sự thật “không đẹp” của chính con người mình. Không thể có hành vi sám hối mà không có sự nhận thức đúng đắn về con người mình. Lời mời gọi sám hối, hàm chứa lời mời gọi xét lại chính con người của mình: tôi có thực sự là người tốt chưa, thành toàn chưa?

Tôi là người như thế nào đối với người ta, đối với tôi, và đối với Thiên Chúa. Có những người đi tìm và cố gắng trở thành “người tốt” theo đánh giá của người khác; những người này đang nô lệ mà không biết. Cũng có người đặt ra cho mình một giá trị, và cố gắng để thành người “thành toàn” theo ý họ; và khi họ không đạt được hoặc không làm chủ được họ hoàn toàn, họ thất vọng và buồn chán. Điều đúng đắn nhất là làm sao để mình đánh giá mình và mọi sự trong nhãn quan của Thiên Chúa Yêu Thương.

“Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cor.6, 2). Mỗi người hãy nhìn lên Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương, là Đấng chỉ biết yêu thương và làm tất cả vì yêu thương. Mỗi người cũng chỉ bị phán xét về duy một điều là mình có làm mọi sự vì yêu thương không thôi (Mt.25, 31tt). Những lầm lỗi trong quá khứ tuy quan trọng nhưng không quan trọng lắm. Điều rất quan trọng là tin vào Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương. Ngài mời gọi mỗi người hãy sống yêu thương như Ngài. Chính hành vi yêu thương làm mình triển nở, hạnh phúc, và cũng làm cho người khác triển nở và hạnh phúc. Những hành vi không làm cho người khác triển nở và hạnh phúc, e rằng đó không phải là hành vi yêu thương thật sự. Nếu tôi sống tốt lúc này, những người quanh tôi sống bình an; nếu tôi không sống tốt, làm hại người khác, thì làm những người đó khổ, và cả tôi cũng khổ, và những người thân yêu của tôi cũng không được thoải mái và hạnh phúc vì tôi. Yêu thương, là hành vi làm con người thành tuyệt vời.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1). Bạn có tin vào số mạng không? Tin vào số mạng có hợp với đức tin Kitô giáo không? Tại sao?

2). Bạn có tin tử vi, coi bói, coi chỉ tay, tướng số không? Tại sao bạn tin và tại sao bạn không tin? Tin vào những điều này có hợp với đức tin Kitô giáo không?

3). Để là một con người mới, điểm chính yếu là gì?

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN-B

HÃY THEO TA- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC

Thưa anh chị em,

Theo lẽ thường khi “tầm sư học đạo” thì trò đi tìm thầy. Ấy thế mà bài Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy một điều hết sức nghịch lý đó là: Chính Thầy Giêsu đi chiêu mộ các môn sinh cho mình. Bốn môn đệ đầu tiên mà Thầy Giêsu mời gọi trong Tin mừng hôm nay, nói lên tình thương nhưng không của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa có sáng kiến đi tìm kiếm con người.

“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”(Ga. 15,16).

Thật vậy, Ngài không gọi những hạng người chìm đắm cầu nguyện trong đền thờ, nhưng gọi những người đang lao động trên bờ biển.

Ngài không gọi những người có học vị bằng cấp, nhưng gọi những anh thuyền chài quê mùa thất học.

Ngài không gọi những người cao sang quyền quí, nhưng gọi những người gia tài sự nghiệp chỉ có con thuyền và tấm lưới rách.

Qua việc Chúa kêu gọi những môn đệ đầu tiên, chúng ta thấy Chúa gọi họ vô điều kiện. Có nghĩa là không phải vì tài cán cá nhân mà các ông được chọn, nhưng do tình thương nhưng không của Thiên Chúa.

Thánh Phaolô đã cảm nghiệm điều này nên Ngài nói: “ Khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh. Như thế, không có ai dám tự phụ trước mặt Thiên Chúa” (1Cor 1,26-29).

Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy theo Ta!” mà không một lời đề nghị hay giải thích, cũng không hứa hẹn gì cho tương lai, không thuyết phục bằng bất cứ điều gì. Vậy mà khi nghe tiếng Chúa gọi, lập tức các ngư phủ đã mau mắn từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.

Đi theo Chúa, để rồi Chúa sẽ biến đổi các ông. Một cuộc biến đổi lạ lùng, từ lưới cá thành lưới người; từ bắt cá dưới biển trở thành bắt cá người khắp thế giới. Tương lai họ là những tay chài đầu tiên trong con thuyền Hội thánh.

Thế nhưng, trước khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ đi theo Chúa, thì Ngài đã theo chúng ta trước rồi. Ngài theo chúng ta mãnh liệt lắm. Thật vậy,

Ngài từ bỏ trời cao xuống đất thấp để theo chúng ta.

Ngài từ bỏ thiên đàng hạnh phúc để xuống trần gian theo chúng ta.

Ngài từ bỏ địa vị Thiên Chúa hạ mình xuống đi theo chúng ta là loài thụ tạo thấp hèn.

Ngài là Thiên Chúa thánh thiện nhưng đi theo chúng ta là những kẻ tội lỗi. Chẳng những Ngài đi theo, nhưng còn hứa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Anh chị em thân mến,

Ngày lãnh Bí Tích Rửa tội, chúng ta cũng được mời gọi đi theo Chúa, bằng chứng Ngài cho chúng ta tham dự vào chức ngôn sứ của Ngài. Qua đó, Chúa ủy thác cho chúng ta sứ mạng làm tông đồ, để đem Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người.

Các tông đồ sau khi nghe tiếng Chúa kêu mời, các ngài sẵn lòng bước đi, dù gian nguy nào sá chi, đi theo Chúa dứt bỏ lợi danh, đi theo Chúa cứu đời lầm than. Các ngài không những trung thành sống với Chúa, nhưng còn tận tâm, tận lực dùng hết năng lực Chúa ban, và ngay cả mạng sống của mình để ra đi gieo rắc tình thương, nên chứng nhân tình yêu, chinh phục các tâm hồn về Giáo Hội Chúa. Sự nghiệp của các ngài thật lớn lao thay, danh thơm tiếng tốt vẫn còn tồn tại trong lòng Giáo Hội cho đến ngày nay.

Vậy thưa anh chị em, ngày nay Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta đi theo Chúa, Ngài không đòi chúng ta phải bỏ tất cả như các môn đệ năm xưa, nhưng chắc chắn Ngài muốn chúng ta khi bước theo Ngài cũng phải từ bỏ những tính hư tật xấu; từ bỏ những dính bén của cải bất chính; từ bỏ những mối tình vụn trộm; từ bỏ những danh lợi chóng qua…., để đi vào con đường Chúa đã đi, con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Ước gì với lòng sám hối chân thành vì những lầm lỗi thiếu sót; mỗi người chúng ta hãy học nơi các môn đệ đầu tiên tinh thần từ bỏ ấy, để theo Chúa mỗi ngày sống khắng khít với Chúa hơn. Amen.

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

ĐÁP TRẢ LỜI MỜI GỌI SÁM HỐI CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm Trần Bình Trọng

Nhận được sứ điệp rao giảng sám hối cho dân thành Ni-ni-vê ngoại đạo, ngôn sứ Giô-na quyết định bỏ trốn vì ông cho rằng chỉ có dân Chúa mới cần nghe sứ điệp sám hối.

Ninivê là thủ đô của nước Át-sua, thù địch của Do thái vào thế kỉ thứ tám trước kỉ nguyên. Ninivê nằm bên tả ngạn sông Tigris, bên kia là thành phố Monsul hiện đại của nước I-rắc. Do đó mà Giôna không muốn cho dân thành Ninivê sám hối kẻo Chúa lại động lòng thương xót mà tha thứ cho họ chăng? Lần thứ hai ngôn sứ Giôna nhận lệnh Chúa để rao giảng cho dân thành Ninivê. Và lần này ông đã vâng lệnh Thiên Chúa. Việc Chúa sai Giôna đi rao giảng sứ điệp sám hối cho dân thành Ninivê cho thấy rằng Chúa là Thiên Chúa của mọi dân tộc, chứ không riêng gì cho người Do thái như ông Giôna lầm tưởng lúc đầu khi trí óc còn hẹp hòi và thiển cận.

Vừa thoạt nghe ngôn sứ Giôna báo trước tai hoạ sẽ xẩy đến cho thành Ninivê: Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá đổ (Gn 3:4), dân thành Ninivê lập tức ăn chay, mặc áo nhặm. Ðối với họ, việc ăn chay, mặc áo vải thô chưa đủ, họ còn từ bỏ đường tội lỗi. Và điều đó mới đáng kể. Câu chuyện Giôna rao giảng sứ điệp sám hối cho dân ngoại phải làm thức tỉnh thái độ tự mãn của dân được Chúa chọn. Nếu Thiên Chúa cho dân thành ngoại giáo Ninivê cơ hội ăn năn sám hối tội lỗi và họ sẵn sàng lắng nghe, và nếu dân thành Ninivê sẵn sàng trở về cùng Chúa thì tại sao dân được chọn trong Cựu ước cũng như Tân ước lại không làm như vậy mà trở về với Chúa?

Hôm nay trong sứ điệp Phúc âm, chính con Thiên Chúa là Ðức Giêsu kêu gọi loài người sám hối: Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Phúc Âm (Mc1:15. Khi nghe sứ điệp sám hối, các ông thuyền chài Simon Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đều từ bỏ nghề cũ, cắt đứt những liên hệ quá khứ để đi theo Chúa.

Ngày nay, nhiều người tín hữu cũng bỏ ngoài tai lời kêu gọi sám hối là vì người ta không nghĩ đến chết. Nói đến chết người ta cho rằng sự chết chỉ xẩy đến cho người khác, chứ không xẩy ra cho mình, hay chưa xẩy ra cho mình. Lý do thứ hai khiến nhiều người bỏ qua việc sám hối vì họ cho rằng họ không trộm cướp, không ngoại tình, không giết người, không bỏ lễ Chúa nhật…

Ðể có được tâm tình sám hối, điều thiết yếu là phải nhìn vào đời sống nội tâm để tìm căn nguyên cội rễ của tội như ghen tuông, hận thù, giận ghét, nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, tức bực, kiêu hãnh, gian tham… Ðó là những rác rưởi của tâm hồn. Nếu khi dọn nhà, ta cần cho đổ rác vì không muốn ngửi mùi hôi, thì khi dọn nhà tâm hồn, ta cũng cần đổ rác rưởi trong tâm hồn. Ðể có được tâm tình sám hối, người ta phải xin cho được ơn biết kính sợ Chúa, không phải sợ Chúa mà không dám đến với Người, nhưng là kính sợ Chúa kẻo làm mất lòng Chúa. Kính sợ Chúa là ơn cần thiết cho phần rỗi linh hồn và là ơn quan trọng trong bảy ơn Chúa Thánh thần nếu xét về sự cần thiết cho việc cứu rỗi. Không biết kính sợ Chúa thì khó mà có được tâm tình sám hối.

Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến chế về Phụng vụ thánh có khẳng định: Giáo hội loan truyền sứ điệp cứu rỗi cho những kẻ không tin để mọi người nhận biết một Thiên Chúa duy nhất và chân thật cùng Ðấng Ngài sai là Ðức Giêsu Kitô, và thống hối, từ bỏ con đường của họ (PV # 9). Thế rồi Công Ðồng cũng xác định trong cùng một văn kiện là: Còn đối với các tín hữu, Giáo hội phải luôn rao giảng đức tin và sự thống hối (PV # 9).

Sứ điệp thống hối hay sám hối thích hợp cho mọi thời đại, mọi hoàn cảnh và mọi lớp người. Sám hối là từ bỏ đường tội lối cũ, trở về với Chúa. Sám hối không có nghĩa là việc đổi mới bên ngoài, nhưng là việc hoán cải nội tâm, có ảnh hưởng sâu rộng trong tâm hồn. Sám hối khác với mặc cảm tội lỗi và không phải là mặc cảm tội lỗi. Khi xưng thú tội lỗi với lòng chân thành từ bỏ, mà được tha thứ là tội được tha, không cần phải hồ nghi, bối rối, lo lắng xem tội có được tha hay không? Tuy nhiên người tín hữu đạo hạnh nên khơi dậy và duy trì tâm tình sám hối, cần thiết cho việc sống gần gũi với Chúa.

Ðem ý tưởng sám hối đền tội vào việc làm, nhất là việc làm mà mình không thích hay việc chịu đựng những trái ý về lời nói, cử chỉ, hành động, hoàn cảnh .. sẽ giúp cho việc làm hay việc chịu đựng trở nên nhẹ nhàng. Chẳng hạn như cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin chịu đựng những lời nói trái ý, những việc làm trái ý, những hoàn cảnh trái ý vì lòng yêu mến Chúa, để đền bù tội lỗi con và tội lỗi nhân loại. Lời cầu nguyện như vậy sẽ giúp ta hạ cơn nóng xuống dễ dàng.

Việc mà thánh nữ Têrêsa hài đồng đã sống, được ghi lại trong chuyện Một Tâm Hồn như sau. Chuyện kể rằng khi ngồi giặt quần áo, có một chị bạn vì ghen tuông gì đó, đã làm bắn bọt sà bông vào quần áo chị Têrêsa, thánh nữ Têrêsa không phản đối, nhưng chịu đựng việc làm trái ý vì yêu mến Chúa, coi bọt sà bông như những cánh hoa hồng dâng lên Chúa, để cầu nguyện cho kẻ tội lỗi được ơn trở lại. Thánh Têrêsa đã biết kết hiệp với Chúa trong công việc làm hằng ngày. Sống trong nhà kín, ít được học đến nơi chốn, khi qua đời mới hai mươi bốn tuổi xuân, chưa thể viết sách để hệ thống hoá một nền thần học kết hiệp, thánh nữ Têrêsa chỉ biết sống và thực hành tinh thần kết hiệp. Việc làm của thánh nữ còn là việc hoạt động truyền giáo, mặc dầu chỉ sống trong nhà kín.

Tâm tình sám hối rất là quan trọng trong đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Được tha thứ tội lỗi trong toà cáo giải rồi, người ta không cần mang mặc cảm tội lỗi hoặc hồ nghi xem tội mình có được tha không? Tuy nhiên hối nhân nên khơi dậy tâm tình sám hối. Có được tâm tình sám hối, người ta sẽ nảy sinh ra hai tâm tình khác. Ðó là tâm tình khiêm tốn, coi mình là yếu hèn và tội lỗi. Và chỉ khi nào người ta coi mình là yếu hèn và tội lỗi, người ta mới cảm thấy cần Chúa và đi tìm Chúa. Có được tâm tình sám hối, người ta sẽ nảy sinh ra tâm tình thứ hai là tâm tình biết ơn: biết ơn Chúa đã đoái thương, tha thứ tội lỗi cho mình, và biết ơn Chúa đã đoái thương đến thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình. Và có được tâm tình sám hối và những tâm tình đi theo là khiêm tốn và biết ơn rồi, người ta sẽ cảm thấy gần gũi với Chúa trong đời sống hằng ngày và dễ dàng khám phá ra sự hiện diện của Chúa  trong đời sống và cảm nghiệm được niềm vui sống đức tin.

Lời cầu nguyện: xin cho được ơn sám hối:

Lạy Chúa, Chúa muốn cho người tội lỗi

ăn năn trở lại để được sống.

Xin cho tội nhân nhận thức được rằng:

tội lỗi họ đã xúc phạm đến Chúa.

Cũng xin cho họ biết đáp lại sứ điệp sám hối

để họ được nhận lãnh ơn tha thứ.

Và xin cho con cũng luôn ý thức được rằng

con cũng cần sám hối và lòng thứ tha của Chúa. Amen.

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

HỌP ĐOÀN- Lm. Vũ Đình Tường

Cá nhân có thể làm những công trình nhỏ dễ dàng nhưng khi phải làm những công trình lớn, tự mình không thể và cần có nhiều bàn tay cộng tác. Khi có nhiều người cộng tác cần có người lãnh đạo công trình. Người đó chịu trách nhiệm chung toàn công trình vừa dễ cho điều hành vừa giải quyết nhanh chóng những khác biệt.

Khởi đầu cuộc đời rao giảng công khai Đức Kitô cũng đang tìm kiếm, lựa lọc nhân viên cộng tác với Ngài trong công trình mà Ngài gọi là ‘Ngư phủ chài lưới người’. Đây là công trình vĩ đại, công trình giải thoát toàn thể nhân loại khỏi xiềng xích tội lỗi và ban ơn cứu độ muôn đời. Đức Kitô chọn một số ngư phủ, họ là những ngư phủ chuyên nghiệp trên sông biển nay biến thành ‘ngư phủ chài lưới người’. Đây là một nghề mới chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Khi được mời gọi trở thành ‘ngư phủ chài người’ có lẽ các ông cũng không hiểu rõ sẽ làm gì nhưng chài lưới thì không thành vấn đề. Còn ‘chài người’ ra sao thì các ông không rõ. Tuy nhiên các ông mạnh dạn dấn thân theo Đức Kitô trở thành ‘ngư phủ chài người’. Từ bỏ lưới và chài cũng như thuyền sau lưng dấn bước theo Đức Kitô là thái độ dứt khoát, rõ ràng từ bỏ quá khứ tiến vào tương lai vô định, đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Để cho vấn đề trở nên cấp thiết hơn Đức Kitô cho các ông biết ‘thời giờ đã gần’ nên không thể chờ đợi thêm mà phải thi hành ngay vì ‘thời giờ đã gần’ để thay đổi, để bắt đầu cuộc sống mới, để từ bỏ nghề cũ chọn nghề mới: chài người thay vì chài cá. Tất cả những đổi thay trên đều vì con người và cho con người. Đức Kitô sinh xuống trần thế cho chúng ta. Nước trời thiết lập cho chúng ta. Nhóm ‘chài lưới người’ cũng vì chúng ta. Thay đổi để trở thành con người mới cũng cho chúng ta. Lối sống mới Đức Kitô mời gọi cũng cho chúng ta. Thống hối và tin vào Tin Mừng cũng cho chúng ta. Và chính điều này biến chúng ta thành con người mới trong Đức Kitô. Xem ra tất cả mọi sự đều cho chúng ta, cho nhân loại được Chúa yêu thương.

Ngư phủ một khi từ bỏ lưới và thuyền sau lưng là chính thức từ giã quá khứ để tiến vào đời sống mới. Từ giã vì ‘thời giờ đã gần’ để thay đổi: thay đổi cách sống, thay đổi ngành nghề, thay đổi lối suy nghĩ và thay đổi đường lối làm việc của con tim.

Nhiều phen ngư phủ chài lưới suốt đêm sáng ra trắng tay, có lẽ số lượng cá giảm nhiều. Có phải vì thế mà họ từ bỏ nghề cũ để nhận nghề mới chăng? Điều chắc chắn là có nhiều lí do khiến họ đổi tay nghề. Mỗi thứ cộng lại một chút ảnh hưởng nhiều đến tâm tư các ông. Lời Đức Kitô mời gọi đi theo đóng vai trò thay đổi, chài cá khó khăn hơn là một yếu tố khác. Thêm vào đó yếu tố mời đổi tay nghề. Trong các yếu tố đó, quan trọng hơn cả là chính con người Đức Kitô dường như nơi Ngài có ‘châm điện’ khiến các ông quyết tâm từ bỏ đường lối cũ bước theo con đường mới. Từ nơi Ngài phát sinh ra một sức mạnh kì lạ khiến các ông, dù không hiểu rõ cũng đặt trọn tin tưởng, hoàn toàn phó thác đời mình cho Đức Kitô để được giáo dục, huấn luyện trở thành các tay ‘chài lưới người’ chuyên nghiệp. Các ông tự nguyện theo Đức Kitô, khiêm hạ đặt mình dưới sự hướng dẫn của Ngài để sống cuộc đời mới. Cuộc đời cá nhân từ nay được thay thế bằng cuộc sống hợp đoàn, cùng với các anh em khác chia sẻ cuộc sống cộng đoàn dưới sự chỉ bảo, hướng dẫn của Đức Kitô. Họ không phải chỉ sống cộng đoàn mà còn bắt chước, học đòi cách sống của chính Đức Kitô và chính điều này biến họ thành con người mới, sống theo gương Đức Kitô, học suy nghĩ như Ngài và thương mến đồng loại theo cùng nhịp tim của Ngài.

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- B

MÃNH LỰC CỦA NIỀM TIN- Lm. Minh Vận CRM

Cựu Hoàng Edward VIII của Anh Quốc, vào năm 1936 khi còn đang trên ngai Hoàng Đế nước Anh, bỗng ông si mê một thiếu phụ thuộc hàng thứ dân, đã một lần bà ly dị chồng.

Theo luật Anh Quốc, thì nhà Vua không được phép cưới một người đàn bà như thế, vì là điều xỉ nhục cho quốc thể. Bởi đó, nhà Vua phải chọn một trong hai con đường:

-Phải bỏ mối si tình đó, nếu còn muốn là Hoàng Đế cai trị Anh Quốc.

-Nếu muốn được yêu đương tự do thì phải bỏ ngôi vị Hoàng Đế, trở thành một người thứ dân.

Chỉ vì muốn đáp tiếng gọi của ái tình, Cựu Hoàng Edward đã chọn con đường thứ hai, trả lại cho Anh Quốc uy quyền và mọi danh vọng, để được cùng người yêu sang Pháp Quốc, sống cuộc đời bình thường như mọi người công dân khác.

Thế rồi, vào 1972 Cựu Hoàng Edward bỗng lâm bệnh nặng. Vừa được tin này, Nữ Hoàng Elizabeth là cháu của ông đang cai trị Anh Quốc, vội vàng từ Luân Đôn bay thẳng sang Paris, xin vào thăm bác của bà, nhưng Cựu Hoàng Edward nhất mực từ chối. Sau vì Nữ Hoàng năn nỉ mãi, nên ông đã đòi một điều kiện là: Nếu bà muốn được vào thăm ông, thì phải phong cho người yêu của ông trở thành hàng công chúa, để người yêu của ông được nở mày nở mặt với đời, không còn bị người đời mỉa mai là hạng đàn bà thứ dân.

Vì tình huyết nhục, Nữ Hoàng Elizabeth đành phải chấp nhận điều kiện để ông được toại nguyện. Thế là ông vui sướng đến độ ngất xỉu, rồi chết luôn ngày 28 tháng 5 năm 1972. Cựu Hoàng Edward VIII chỉ vì muốn được tự do theo tiếng gọi của ái tình, ông đã đành bỏ ngai vàng Hoàng Đế và mọi vinh sang danh vọng; nhưng rồi lại cũng chỉ vì muốn danh vọng cho người yêu của ông, mà ông đã vui sướng đến chết đi vì danh vọng. Thật là điên khùng!

Bài sách tiên tri Jona chúng ta vừa nghe, cho chúng ta thấy mãnh lực của niềm tin tưởng và lòng yêu mến vâng nghe Lời Chúa. Tiên tri Jona vừa công bố lệnh Chúa truyền: ” Chỉ còn bốn mươi ngày nữa, thành Ninive sẽ bị phá hủy”. Khi nghe tin đó, chính nhà Vua đã lià bỏ ngai vàng, cởi áo cầm bào, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Khắp nơi trong thành Ninive, người ta tuân theo sắc lệnh của nhà Vua và triều đình: Mọi người lớn bé, già trẻ, cả chiên bò, súc vật đều không được ăn uống của gì; lại cả người lẫn súc vật đều phải cuốn bao bố. Mọi người đều khẩn cầu cùng Chúa, quyết tâm cải thiện đời sống, tẩy trừ gian ác, xin Chúa nguôi giận và tha thứ tội lỗi cho dân.

Quả thật, Chúa đã thấy họ thực tâm sám hối cải thiện đời sống, chừa bỏ tội lỗi, Chúa liền động lòng thương xót không thi hành việc giáng họa, tiêu diệt thành Ninivê, như lời Người đe phạt. Đó là kết quả của niềm tin tưởng và lòng yêu mến.

Bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại, sau khi Gioan Tiền Hô bị tống ngục, Chúa Giêsu đến xứ Galilea và rao giảng rằng: ” Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. Thế rồi, đi dọc theo bờ biển, Người gặp Simon và Andrê đang thả lưới, Người phán bảo hai anh em: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức hai ông bỏ chài lưới đi theo Chúa. Đi một chút nữa, Chúa lại gặp Gioan và Giacôbê là hai con ông Giebeđê đang xếp lưới, Người cũng gọi họ. Lập tức hai anh em cũng từ bỏ thân phụ và các người làm công để đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu.

Các vị này đã dứt khoát bỏ mọi sự, để dấn thân theo Chúa ngay, cũng chỉ vì niềm tin tưởng và lòng mến yêu đặt nơi Đấng đã kêu gọi họ. Chính niềm tin tưởng lòng yêu mến đó, còn có mãnh lực đến nỗi, đã làm cho các ngài sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, cùng với Chúa đi khắp đó đây để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân; rồi cuối cùng, các ngài đều sung sướng được chịu chết, để minh chứng niềm tin yêu nơi Chúa, như tiểu sử các ngài đã từng ghi nhận:

Thánh Phêrô sau những năm theo Chúa rao giảng Tin Mừng, làm việc ngày đêm, long đong vất vả, trốn tránh ngược xuôi, ra tù vào khám. Ngài đã rảo khắp miền Anitoche và vùng Tiểu Á thực thi sứ mạng Chúa ủy thác dù phải gặp biết bao gian truân. Cuối cùng, ngài đã phải lãnh án tử hình thập giá; nhưng ngài đã xin được đóng đinh ngược đầu xuống, để tôn kính Chúa và để người ta khỏi lầm tưởng ngài với Thầy Chí Thánh mình.

Cũng vậy, Thánh Andrê cũng chịu đóng đinh trên thập giá suốt hai ngày trời, sau nhiều năm rao giảng Tin Mừng và ca tụng Thầy Chí Thánh trước mặt muôn người.

Thánh Giacôbê thì bị dân chúng xua đuổi hết thành này đến thành khác, nếm đủ mùi khổ thống. Cuối cùng, ngài đã bị chém đầu để chứng minh cho Thầy mình.

Cùng một số phận, Thánh Gioan Tông Đồ được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt, được Chúa trao sứ mạng phụng dưỡng Mẹ Maria; và sau cuộc đời gian khổ vì Tin Mừng, ngài đã bị quảng vào vạc dầu sôi, chịu chết để minh chứng cho niềm tin yêu và lòng trung thành của ngài với Đấng ngài yêu mến.

Để minh chứng niềm tin yêu của chúng ta nơi Chúa, chúng ta đã làm gì? Chỉ một tiếng gọi của ái tình, được thỏa mãn lòng si mê một người đàn bà thứ dân, Cựu Hoàng Edward đã sẵn sàng từ bỏ ngai vàng Hoàng Đế và mọi vinh sang phú quí triều đình Anh Quốc.

Còn chúng ta, chúng ta đã có thái độ nào khi nghe lời thống thiết Chúa kêu gọi: ” Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”, để được hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời trong Nước Thiên Chúa?

Chúng ta hãy noi theo gương dân thành Ninive, cấp bách đáp lời tiên tri Giona kêu gọi bỏ đàng tội lỗi, sám hối cải thiện đời sống, để đáng được Chúa thương ban ơn tha thứ.

Chúng ta hãy mau mắn đáp lại Lời Chúa mời gọi: ” Hãy theo Cha” và hãy anh dũng dấn thân theo Chúa, trung kiên thực thi sứ mạng tông đồ, sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, và nếu cần sẵn sàng hiến cả mạng sống mình, để minh chứng niềm tin yêu nơi Đấng đã yêu thương kêu gọi chúng ta, theo gương các Thánh Tông Đồ đã chịu chết vì Thầy mình.

Chúng ta hãy sống niềm tin vào tinh thần Tin Mừng, vào những giáo huấn của Chúa và những lời dạy dỗ của Giáo Hội như Chúa và Giáo Hội đã kêu gọi.

Kết Luận

Chớ gì chúng ta luôn có tâm hồn ngoan thảo thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin chỉ bảo cho chúng con biết đường lối Chúa. Xin cho chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa và biết can đảm, anh dũng dấn thân sống Lời Chúa, để chúng con cũng được Chúa chúc phúc như chính Chúa đã kín đáo chúc khen Mẹ Chúa: “Hạnh phúc hơn nữa cho những ai biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).

#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatiiithuongnien

Nguồn tin: www.giaophanbaria.org

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây