THỨ BA TUẦN XXXIV THƯỜNG NIÊN
Lc 21,5-11
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca.
5 Nhân có mấy người nói về Đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: 6 “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.”
7 Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?”
8 Đức Giêsu đáp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và: “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ. 9 Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu”.
10 Rồi Người nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. 11 Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.”
SUY NIỆM: MỘT SỢI TÓC TRÊN ĐẦU ANH EM CŨNG KHÔNG BỊ MẤT ĐÂU
1. Mọi sự sẽ qua đi
Khi nghe một số người ca ngợi vẻ đẹp của Đền Thờ Giê-ru-salem một cách tự phát, cũng như chúng ta vẫn thốt lên những lời như thế, khi tham quan những công trình kiến trúc vừa lớn vừa đẹp, Đức Giê-su nói với các môn đệ :
Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết,
không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. (c. 6)
Lời nói này của Đức Giê-su không chỉ báo trước biến cố lịch sử Đền Thờ sẽ bị phá hủy bởi người La Mã vào năm 70, nhưng dưới ánh sáng của những gì Người nói sau đó, để trả lời cho câu hỏi của các môn đệ : « Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước? » (c. 7), chúng ta được mời gọi hiểu lời loan báo này của Đức Giê-su ở mức độ cánh chung : vào thời cánh chung, nghĩa là thời điểm tận cùng của thời gian, tất yếu sẽ đến, vì chúng ta đang ở trong thời gian có thủy có chung, nghĩa là mọi sự sẽ qua đi.
Như thế, lời của Đức Giê-su : « Sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào », vừa đụng chạm đến bản chất của mọi sự và vừa đụng chạm tới thời điểm tận cùng của chúng. Đồng thời, lời nói này của Người mời gọi chúng ta qui hướng về, gắn bó với, cảm nếm và chiêm ngưỡng điều sẽ không bao giờ qua đi. Điều sẽ không bao giờ qua đi, đó chính là Lời Chúa, như chính Người sẽ nói, trong bài Tin Mừng của thứ sáu sắp tới, là ngày cuối của tuần cuối trong mùa Thường Niên :
Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.(Lc 21, 33)
Lời Chúa không qua đi, vì thế cũng sẽ làm cho chúng ta không qua đi, nhưng qui tụ chúng ta, những người còn sống cũng như những người đã qua đời, bên Chúa và bên nhau mãi mãi trong Nước của Thiên Chúa.
2. Loạn lạc, thiên tai và bách hại
a. Loạn lạc và thiên tai
Vào thời cánh chung, mọi sự sẽ qua đi vì chiến tranh loạn lạc : « Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ », và vì thiên tai : « Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện ».
Tuy nhiên, chẳng cần phải đợi đến thời cánh chung, để cho mọi sự chúng ta đang nhìn thấy và chiêm ngưỡng, mọi sự chúng ta có và mọi sự chúng ta là sẽ qua đi. Bởi lẽ mọi sự đang qua đi và qua đi rất nhanh. Mọi sự đang qua đi hôm nay, đó không chỉ là vì do bản chất của chúng, nhưng còn là vì những nguyên nhân bên ngoài nữa, đó là thiên tai do trời đất và chiến tranh do con người.
Thật vậy, trong những năm vừa qua, và cả trong những ngày này ở Việt Nam và ở một số nơi trên thế giới, chúng ta như chứng kiến những dấu chỉ loan báo thời điểm tận cùng: núi lửa hoạt động, những đợt sóng thần, những cơn động đất, nước từ trời trút xuống, nước từ sông biển dâng lên, gió bão hung hãn… Và những gì xẩy ra trong thiên nhiên hoàn toàn khớp với những gì con người đang làm cho con người: đó là khủng bố, đó là bạo động, đó là giết hại mầm sống và chính sự sống nhân linh từ trong giai đoạn hình thành kì diệu nhất, tham lam, gian dối, đó là làm thiệt hại và hãm hại người khác, đó là dò xét và lên án, đó là cấm cản giam hãm, đó là áp đặt bằng quyền bính bất chấp ngôi vị, đó là nghi ngờ, không tin tưởng và thiếu tôn trọng người khác.
Xét cho cùng, như ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, những thái độ và cách hành xử như thế, cho dù là nhân danh sự sống, nhân danh lợi ích của tập thể, nhưng thực ra là phá hủy sự sống một cách nghiệm trọng nhất, bởi lẽ đó là cách hành xử của chính Sự Dữ. Như thế, lời của Đức Giê-su : « Sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào » không chỉ đụng chạm đến bản chất của mọi sự, nhưng còn mặc khải về hoàn cảnh hiện thực của mọi sự.
Nhưng đó chính là hành trình Vượt Qua của thế giới sáng tạo và của lịch sử loài người : để đi vào sáng tạo mới và đi vào vĩnh cửu, mọi sự phải tan biến đi. Cũng tương tự hành trình Vượt Qua của Đức Giê-su và của mỗi người chúng ta : phải băng qua sự chết để phục sinh, nghĩa là đi vào sự sống viên mãn và vĩnh hằng. Và chúng ta được mời gọi sống hành trình Vượt Qua của chúng ta mỗi ngày, như lời Thánh Vịnh diễn tả :
Con nằm xuống và con thiếp ngủ, rồi thức dậy vì Chúa đỡ nâng con. (Tv 3, 6)
b. Bách hại
Đức Giê-su còn nói, trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, về sự bách hại mà người môn đệ sẽ phải gánh chịu vì danh của Người, trong bối cảnh của ngày Cánh Chung. Tuy nhiên, lịch sử Giáo Hội cho thấy và kinh nghiệm sống của chúng ta cũng cho thấy như thế, đó là sự bách hại có thể xẩy ra bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Chính vì thế, trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, Đức Giê-su nói về sự bách hại, với cùng những từ ngữ mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng theo thánh Luca, khi Người sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 10, 17-22).
Như thế, mặc khải mà Đức Giê-su mang lại cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay thật lớn lao: sự bách hại mà người môn đệ phải gánh chịu vì danh Người ở mọi thời, và chúng ta có thể hiểu rộng hơn, những khó khăn bên ngoài cũng như bên trong mà chúng ta phải đối diện hầu như hàng ngày, khi cố gắng sống vì Danh Đức Giê-su, vì tình yêu chúng ta dành cho Người, vì Tin Mừng của Người, tất cả những bách hại và khó khăn đời thường đó, có tầm mức cánh chung. Có tầm mức cánh chung, nghĩa là đó là lúc Nước Thiên Chúa ngự đến, là thời điểm mà mọi sự được hoàn tất để đi vào trong sự sống mới và sáng tạo mới, theo khuôn mẫu của mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, chính lúc Đức Giê-su bị bách hại đến chết, là lúc “mọi sự được hoàn tất”, và Ngài đi vào cõi hằng sống của Thiên Chúa Cha, bởi sức mạnh của Thánh Thần.
Sống theo Tin Mừng vì Danh Đức Giê-su, vì tình yêu chúng ta dành cho Người, chúng ta sẽ bị “người ta” bách hại, hay gây khó khăn. Điều này dễ hiểu và chúng ta sẵn sàng đón nhận. Nhưng điều khó hiểu và khó chấp nhận, khi Đức Giê-su nói tới sự bách hại đến từ chính những người thân yêu của chúng ta: “Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em”.
Khi Đức Giê-su sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Người nói: “Thầy sai anh em đi đi như chiên vào giữa bầy sói”. Như thế, sự chống đối, thậm chí bách hại, là tất yếu; như hình ảnh “chiên và sói” gợi ra: một bên là hiền lành và một bên là bạo lực, muốn hủy diệt. “Người đời” đã bách hại Thầy và “người đời” tiếp tục bách hại Thầy nơi các môn đệ, bởi vì Thầy là “Chiên lành”, “Sự Thiện”, “Thiên Tính”, “Ánh Sáng”, “Sự Sống, “Sự Thật”. Vì thế, một cách tương ứng, kẻ bách hại không phải là những con người cụ thể, nhưng là “Sói Dữ”, “Sự Dữ”, “Thú Tính”, “Gian Dối”, “Bóng Tối”, “Sự Chết” hành động nơi những con người cụ thể. Thế mà, Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ có mặt ở khắp nơi và nơi mọi người, có nơi chính các môn đệ, và có ở nơi chúng ta nữa! Vì thế, sự chống đối của Sự Dữ có thể bùng lên từ những nơi và những người thiết thân nhất: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.” “Sói Dữ” không phải là con người, những là thú tính hiện diện và chi phối con người chống lại “Chiên Lành”.
3. “Một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu” (c. 18)
Nhưng lời loan báo của Đức Giê-su về sự bách hại thậm chí giết hại, lại chứa đựng Sự Sống của Thiên Chúa và hướng đến Sự Sống viên mãn của Người, theo khuôn mẫu của “Hạt Lúa Mì”, nghĩa là của mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, bách hại, nhưng lại là cơ hội “để làm chứng cho Thầy”; và bởi vì đây là chứng từ tận cùng, nghĩa là “chứng từ hi sinh sự sống”, như Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó, người môn đệ được dẫn vào kinh nghiệm “thần nhiệm”, như thánh Phaolo đã kinh nghiệm: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, nhưng Đức Ki-tô phục sinh sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Xin cho chúng ta, mỗi khi gặp khó khăn vì Danh Đức Giê-su và vì Tin Mừng của Người, cảm nghiệm được niềm vui sâu xa, vì mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô được tái hiện lại nơi cuộc đời của chúng ta, vì được trở nên giống như Người, vì được trở nên một với Người, vì được Người nâng đỡ và chăm sóc cách đặc biệt, như Người nói trong bài Tin Mừng của ngày mai: “Chính Thầy sẽ cho anh em nói thật khôn ngoan…”, và
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
SUY NIỆM: NGÀY TẬN CÙNG
1. Đây là đoạn mở đầu cho một đơn vị văn chương được gọi là “diễn từ chung luận” (Lc 21,5-36), trong đó Chúa Giêsu nói đến những vấn đề “chung kết” của lịch sử và qua đó Chúa cũng muốn ám chỉ đến ngày tận cùng của một đời người.
Đoạn diễn từ này khó hiểu vì được viết theo văn thể khải huyền. Chúa đã dùng những hình ảnh rất thật nhưng chưa xảy ra để nói một cách úp úp mở mở về ngày chung cuộc và có ý cho mọi người hiểu rằng, ngày chung cuộc chắc chắn rồi cũng sẽ xảy đến như vậy.
Vâng! Mọi công trình do con người xây dựng, dù cho có kiên cố và quý giá đến đâu đi nữa, kể cả Đền thờ Jêrusalem...đều sẽ có ngày sụp đổ. Chẳng có gì bền vững ở thế giới này. “Trăm năm bia đá cũng mòn” ; “Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa. Hoa nào không phai tàn? Trăng nào không khuyết? Ngày nào mà không có đêm? Yến tiệc nào không có lúc tàn?”
Triết lý Á Đông: “sự vật hễ có sinh thì có hoại”.
“Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6).
Một lúc nào đó, dù muốn hay không muốn, cái chết cũng đến với chúng ta. Chúng ta sẽ ra đi như chúng ta đã vào đời. Từ trong bóng tối đi ra, chúng ta cũng sẽ trở về với bóng tối. Đã có một thời không có chúng ta, và cũng sẽ đến thời không ai còn nhắc đến chúng ta nữa.
Một hôm trong một cuộc nói chuyện, một giáo sư dạy triết hỏi các sinh viên của mình:
- Em nào trả lời câu hỏi của thầy thì giơ tay lên - thầy nói với cả lớp.
- Ai có thể kể về cha mẹ mình?
Mọi người đều giơ tay.
- Ai có thể kề về ông bà mình?
Khoảng ba phần tư lớp giơ tay.
- Vậy em nào có thể kề về ông bà cố của mình?
Chỉ hai trong số 60 sinh viên giơ tay.
- Giờ thì các em hãy suy nghĩ kỹ đi nào - thầy bảo - Chỉ mới cách có hai thế hệ mà rất ít người biết cụ cố mình là ai. Có thể các em từng thấy một bức ảnh cũ kỹ phai màu được cất kỹ trong hộp thuốc lá mốc meo, hay đã nghe kề một câu chuyện tiêu biểu về gia tộc mình, và biết có người trong tổ tiên mình đã lội bộ năm dặm đường để đến trường. Nhưng mấy người trong các em thật sự biết tổ tiên của mình là ai, các cụ nghĩ gì, hãnh diện, lo sợ hay mơ ước điều gì. Các em thử nghĩ xem. Chỉ trong vòng ba thế hệ thôi mà các bậc tiền nhân đều đã bị lãng quên. Vậy, liệu điều đó có xảy đến với các em sau này không?
Để thầy nêu câu hỏi cụ thể hơn cho các em. Các em thử tương tượng xem ba thế hệ sau mình. Lúc ấy các em đã ra người thiên cổ lâu rồi. Chỗ các em ngồi bây giờ sẽ là chỗ của các chít chắt. Liệu chúng có biết gì về các em không? Hay là các em cũng sẽ chìm sâu trong dĩ vãng?
Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thề hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào? Sự lựa chọn hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của các em. Thôi bây giờ lớp chúng ta nghỉ. Không ai trong lớp đứng dậy và ùa về như mọi khi. Mọi người đều ngồi lại và suy nghĩ về lời thầy nói. (Jodie Foster)
Đó cũng là số phận chung của con người.
2. Quả thật, không gì thê thảm bằng cái chết. Chúng ta muốn sống, sống mãi, chúng ta muốn được người đời nhắc đến, nhưng rồi chúng ta phải chết, bị chìm trong quên lãng của thời gian. Mỗi ngày có trên 20.000 người chết, mỗi giờ có đến 10.000 người chết. Hôm nay, ngày mai hay bất cứ lúc nào, tôi cũng sẽ được đếm trong số người phải ra đi ấy.
Tác giả Đường Bá Hổ có bài thơ về đời người như sau:
Xuân đi, Hạ lại, Thu sang Đông,
Chóng như thoi đưa, như nước chảy,
Vừa tiễn buổi chiều chuông chùa kêu,
Đã báo rạng đông, gà gáy sáng,
Ta thử tính xem những người nhãn tiền,
Một năm đã thấy khuất vô số.
Lô nhô nắm đất cánh đồng hoang,
Quá nữa không ai người tảo mộ.
Người ta thường nói “Các nhà văn muốn viết một quyển chuyện hay thì thường phải nghĩ đến phần kết của câu chuyện trước.
Trên vòng bán nguyệt của khung cửa chính của Nhà thờ chính tòa Milanô người ta thấy có khắc ba dòng chữ. Phía dưới hình hoa hồng được trạm trổ tinh vi của vòng bán nguyệt thứ nhất, người ta đọc được dòng chữ: “Mọi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc!”. Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây Thập Giá, có dòng chữ: “Mọi đau khổ chỉ kéo dài trong khoảnh khắc”.
Và ở vòng bán nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chính Vương cung Thánh Đường có khắc dòng chữ: “Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng nhất!”
Xin nhắc lại một lần nữa: “Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng nhất!”
Lm Giuse Đinh Tất Quý
SUY NIỆM : NGÀY PHÂN BIỆT
Một công trình hoành tráng, nguy nga, hùng vĩ được xây dựng lên để thách đố với thời gian, khẳng định với thời đại, đó chính là thành thánh Giêrusalem. Quả thật, đây là công trình thế kỷ; là niềm tự hào, hãnh diện của người Dothái... Tuy nhiên, công trình này rồi cũng như hoa kia sớm nở tối tàn mà thôi. Dù nguy nga, đồ sộ cỡ nào thì trước mặt Chúa cũng chỉ là phù vân!
Quả thật, sự kiện năm 70 sau Chúa Giáng Sinh, quân đội Rôma đã phá đổ tan tành, không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào, và nó đã thành biển lửa và máu. Ngày nay, người ta chỉ còn biết đến nó như là một sự kiện của lịch sử hay như một kỷ niệm buồn tủi với nước mắt...
Hình ảnh thành thánh Giêrusalem bị tàn phá là tiền đề để giúp cho chúng ta cảm thấy trước sự kinh hoàng, ghê rợn trong ngày chung cuộc của con người và thế giới. Ngày đó đến với các điềm báo trước như: hạn hán, mất mùa, bệnh dịch, những điềm lạ xuất hiện trên trời như: kinh thiên, động địa, hay chiến tranh tàn phá và loạn lạc... Ngày đó là ngày phán xét, ngày phân biệt tốt và xấu; thiện và ác; chiên và dê; lúa và cỏ lùng; cá tốt và cá xấu...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Nước Trời như một điểm đến của chúng ta. Cần nhạy bén với các dấu chỉ thời đại, hầu thay đổi cuộc sống để trở nên tốt hơn. Cần tránh cho xa những điều bất chính và mặc lấy thái độ của những người sống trong ân sủng. Suy nghĩ, hành động tốt để ngày Chúa đến với chúng ta là một ngày tràn ngập vui mừng. Chớ dại mà bám víu vào những thứ tưởng chừng sẽ tồn tại trong cuộc sống như: vật chất, chức quyền, danh vọng; hay những thú ăn chơi, đàn điếm, cờ bạc mà quên đi mục đích tối hậu của mình.
Chỉ có Lời Chúa là tồn tại và là Lời Hằng Sống có sức biến đổi cũng như cứu vãn chúng ta khi chúng ta lắng nghe và thực hành mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tỉnh thức và sẵn sàng, vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến. Xin ban ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM: THỜI GIAN CHUYỂN TIẾP
Ðối với người Do thái, Ðền thờ Giêrusalem là biểu tượng cho niềm vui và hãnh diện, và là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, là nơi hằng năm muôn dân tuôn về đó để mừng lễ. Ðền thờ được xây bằng đá quí, sừng sững trên ngọn đồi này vẫn được xem là nơi nương tựa vững chắc có thể đương đầu với thời gian. Thế mà Chúa Giêsu lại tuyên bố sẽ có ngày nó bị tàn phá, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.
Về thời điểm các sự việc đó xảy ra, dưới ngòi bút của thánh Luca, câu trả lời của Chúa Giêsu không chỉ riêng cho Giêrusalem mà còn bao gồm cả chiều kích lịch sử cứu độ: cũng như Ðền thờ Giêrusalem, thế giới này dù có vững vàng đến đâu, thì một ngày nào đó cũng sẽ tàn lụi. Trong khoảng thời gian trước ngày Chúa trở lại sẽ có nhiều tai ương khốn khó. Hình ảnh các biến cố thiên nhiên, như động đất, hạn hán, mất mùa, ôn dịch; những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ trên trời, hay hình ảnh chiến tranh, loạn lạc, là những yếu tố trong lối hành văn được các Tiên tri sử dụng để báo trước về ngày chung thẩm của Thiên Chúa. Tuy nhiên, các biến cố đó không phải chỉ là những hình ảnh, mà là sự thật; chúng cũng tác dụng như một nhắc nhở con người ý thức bản chất thụ tạo yếu đuối và mỏng dòn của mình, đồng thời soi sáng cho con người biết chiều kích về ơn gọi siêu việt của mình là sống như con cái Thiên Chúa và trung thành thực hiện ơn gọi đó, trong khi chờ đợi ngày Chúa lại đến.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tin tưởng vào tình thương bao la của Chúa. Xin cho chúng ta hằng gắn bó với Chúa và sống hết tình con thảo từng giây phút đời sống chúng ta.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM: ĐỀN THỜ SỤP ĐỔ
Nhân có mấy người nói về đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” (Lc. 21, 5-6)
Đoạn Tin mừng này khá phức tạp: hai phần không liên hệ với nhau. Trong đoạn đầu, Đức Giêsu loan báo sự tàn phá đền thờ Giê-ru-sa-lem. Trong đoạn hai, người ta đặt câu hỏi mong Người trả lời: “Bao giờ xảy ra và có điềm gì báo trước?”. Nhưng Người không trả lời như họ mong muốn, Người lại nói đến những điềm báo về ngày tận thế. Chúng ta nhận xét vài điều liên hệ tới đền thờ sụp đổ.
Hai kiểu giải thích:
Tại sao đền thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá? Tại sao Đức Giêsu nói tiên tri “sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” của lâu đài tráng lệ này được người Do thái tôn kính?
Đức Giêsu đã giải thích hai lần về vấn đề này. Trong Luca đoạn 19, 44 Người coi biến cố này là một hình phạt đổ xuống dân thành vì họ không nhận ra Đấng Thiên sai Cứu thế của Thiên Chúa. Lần thứ hai, trong Tin mừng theo thánh Gio-an đoạn 2, 19-22 giải thích sâu sắc hơn ẩn chứa một chút mầu nhiệm: “Hãy phá đền thờ này, và trong ba ngày, Tôi sẽ xây dựng lại”. Đức Giêsu muốn cho hiểu rằng: Đã đến thời Thiên Chúa ngự ở khắp mọi nơi và tỏ mình ra không chỉ ở đền thờ. Người quả quyết rằng đền thờ phải biến đi để Ngài hiện rõ ràng trước hết và trên hết trong chính Con Người của Con Thiên Chúa. Nói cách khác, Đức Giêsu phục sinh là đền thờ, đền thờ mới và duy nhất. Ngày phục sinh là ngày đền thờ Giê-ru-sa-lem suy tàn đi, biến đi.
Con người là đền thờ Thiên Chúa.
Thánh tông đồ Phao-lô đã bổ túc tư tưởng của Đức Giêsu khi giải thích: Mỗi Kitô hữu và toàn bộ mọi Kitô hữu hình thành Giáo hội, là đền thờ mới để Thiên Chúa ngự. Chúng ta có thể nói mà không nghịch lại với tư tưởng của thánh Phao-lô rằng: Thực sự chính trong con tim của bất cứ người nào đều là nơi Thiên Chúa ngự.
Nếu quả thật như vậy, chính trong con tim mỗi người phải đi tìm Thiên Chúa trước hết. Ai không gặp được Thiên Chúa ở với mọi người thì họ không gặp được Ngài bao giờ.
R.C
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn