CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG NĂM C

Thứ sáu - 20/12/2024 05:32
cn 4 mv 4 scaled

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG NĂM C
Mk 5,1-4a ; Dt 10,5-10 ; Lc 39-45

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
39Hồi ấy, Bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. 41Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, 42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc”. 43Bởi đâu tôi được Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? 44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
SUY NIỆM 1: ĐỨC MARIA, MẪU GƯƠNG MÙA VỌNG
Lời Chúa: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện” (Lc 1,42).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay giới thiệu cho chúng ta: Đức Maria, mẫu gương của mùa vọng. Niềm tin đã giúp Đức Maria xác tín vào ơn Cứu Độ của Thiên Chúa khi mở rộng tâm hồn đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể làm người:
Vững tin Lời Chúa hứa xưa,
Sắt son tín thác: Mẹ thưa vâng lời.
Mẹ là gương sáng rạng ngời,
Noi gương chờ đợi, Chúa Trời viếng thăm.
Kiên tâm cầu nguyện chuyên chăm,
Gẫm suy Lời Chúa, ta hằng noi theo.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết lấy đức tin để nhìn ra niềm vui của ngày Chúa đến. Nhất là biết noi gương Đức Maria lên đường đem Chúa đến cho người khác. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đã sai Ngôn sứ Mikha loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến trong cảnh đơn hèn. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã chúc phúc Đức Maria thật có phúc khi mẹ vững tin vào lời Chúa hứa. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa đến trần gian để thi hành thánh ý Chúa Cha. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Khởi đầu Mùa Vọng, Giáo hội giới thiệu ngôn sứ Isaia đã loan báo cho dân chúng về Đấng Thiên sai để chúng ta noi gương Isaia khao khát ơn cứu rỗi và kết hợp mật thiết với Chúa; tiếp đến là thánh Gioan Tẩy giả, người đã thúc giục mọi người hãy sám hối dọn đường cho Chúa đến để chúng ta bắt chước Gioan Tẩy giả sống hy sinh khắc khổ, chấp nhận bị quên lãng và nhỏ bé vì Chúa để Chúa được lớn lên trong đời mình; và hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy noi gương Đức Maria, mẫu gương của Mùa Vọng để chúng ta chăm chỉ lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện sốt sắng và hăng say đem Chúa đến cho mọi người.
Thưa anh chị em, ngôn sứ Mikha là người sống đồng thời với ngôn sứ Isaia và đã thi hành sứ vụ tại Giuđa thuộc miền Nam nước Do thái vào những năm 783-693 trước công nguyên, ông cũng là người thừa kế tinh thần của Isaia. Ngôn sứ Mikha luôn phải chứng kiến những bất công nên ông đã lên án những tệ đoan xã hội và loan báo những thảm hoạ sẽ sảy đến với những kẻ độc ác, những kẻ cho vay ăn lời cắt cổ, những con buôn gian lận, các thủ lãnh độc tài và các quan toà nhận hối lộ. Đứng trước hoàn cảnh ấy, ông giữ một niềm trông cậy vào Thiên Chúa và loan báo: “Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời”. Ông còn cho biết, vị Vua hoà bình sẽ xuất hiện. Người là Đấng Emmanuel sẽ đến thống trị Israel và đem lại cho Israel sự thống nhất và bình an trong khi dân Israel bị chia rẽ và cơ cực. Vị Vua hoà bình, Đấng Thượng tế cao cả ấy được sinh ra từ người mẹ khiêm nhu, người mẹ ấy chính là Đức Maria. Với lời thưa xin vâng, Đức Maria đã dấn thân đồng hành với Đấng Cứu thế, Đấng đã giáng sinh để thực thi hoàn toàn tôn ý Chúa Cha: “Lạy Cha, này con đến để thi hành thánh ý Cha”. Như thế, Đức Maria không phải chỉ là mẹ của một con người nhưng là mẹ của Thiên Chúa nhập thể làm người. Đức Maria đã tin vào lời của Thiên Chúa, Đấng đã chọn, kêu gọi và báo cho mẹ một biến cố xem ra không thể có: biến cố trinh nữ sẽ thụ thai nhưng tâm hồn Đức Maria đủ đơn sơ, tình yêu của mẹ đủ vững mạnh để tin rằng “không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.
Chuyện kể rằng, một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở với nội dung: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông đúng ngày giờ đã hẹn đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Mọi người đều đã xem đây là một trò đùa nên không đến, nhưng một vài người đến họ đã được giúp đỡ tận tình.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Đức Maria đã dám tin vào Lời Chúa hứa nên đã được tràn đầy ơn phúc. Vì thế, Đức Maria đáng được bà Isave chúc tụng: “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện”. Đức Maria là mẫu gương của những người tin, là mẫu gương dấn thân phục vụ cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng có thể được chia sẻ lời chúc phúc này nếu chúng ta biết học nơi Đức Maria tâm tình tín thác vào Chúa, sống khiêm nhường, bác ái với những người đau khổ về tinh thần, vật chất theo phương châm của thánh Phaolô Tông đồ đã đề ra: “Nên mọi sự cho mọi người”.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn mừng ngày lễ Giáng Sinh và chờ đợi ngày Chúa lại đến bằng việc biết học nơi Mẹ Maria đời sống khiêm nhường, tín thác vào Thiên Chúa và phục vụ tha nhân để đời sống của chúng ta trở nên lời chứng cho tình yêu của Thiên Chúa giữa lòng thế giới. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
SUY NIỆM 2: CHO ĐI THEO GƯƠNG MẸ MARIA
Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay nhắc đến đến hai phụ nữ. Đó là Đức Maria và bà Elisabet. Cả hai được tiếng là người có phúc đặc biệt. Một người thì cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế; còn người kia thì cưu mang và hạ sinh Đấng Tiền Hô dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Nhưng ai là người có phúc hơn? Dĩ nhiên là Đức Mẹ. Vì sao? Cứ như lời sứ thần nói, Mẹ là người có phúc vì Mẹ đã tin lời Thiên Chúa, và vì Mẹ được Thiên Chúa ở cùng. Hơn nữa theo lời của Chúa Giêsu: “Người cho thì có phúc ơn là người nhận”, thì rõ ràng Đức Mẹ là người có phúc hơn. Mẹ có phúc vì Mẹ đã luôn biết cho đi. Mẹ cho đi những gì?
- Cho đi sự hiện diện và phục vụ: Mẹ đã cho đi sự hiện diện trân quý của mình để đem lại niềm vui ngập tràn cho gia đình ông bà Giacaria. Mẹ đến hiện diện bên người chị họ và ở lại với người chị họ. Để phục vụ Mẹ phải chấp nhận hy sinh thời giờ, sức khoẻ và công việc gia đình để giúp đỡ người chị họ đang mang thai và sinh con trong lúc tuổi già: phục vụ cơm nước giặt giũ, chợ búa nhà cửa trong những ngày bà Êlisabét thai nghén và sinh nở. Hy sinh thời giờ không phải ngày một ngày hai, mà là suốt 3 tháng tròn.
- Cho chính Chúa: của cho mà Đức Mẹ dành cho bà Elisabet không phải là món quà vật chất: không phải là con gà con vịt, không phải là thùng nước mắm, hay kg mực một nắng, cũng không phải thùng trái cây thanh long, mà là chính Ngôi Hai Thiên Chúa. Đây là quà tặng lớn lao nhất. Mẹ đóng vai trò như Hòm Bia Giao Ước Mới sống động, mang Chúa đến hiện diện giữa mọi người. Bởi đó cuộc gặp gỡ của Mẹ với người chị họ cũng đích thực là cuộc gặp gỡ của hai người con. Ngay khi bà Êlisabét nghe lời Mẹ chào thì hài nhi Gioan trong bụng liền nhảy lên reo mừng. Gioan nhảy lên vì được “chạm mặt” Đấng Cứu Thế, là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Gioan reo mừng vì được chính Con Đấng Tối Cao hạ cố đến viếng thăm mình. Rõ ràng ngay lúc này Mẹ đã nhường chỗ cho Chúa Giêsu, để Ngài được nhận biết và được lớn lên trong lòng người khác. Đây là yếu tố chính làm nên nét đẹp huyền diệu của cuộc thăm viếng mà Mẹ Maria đã thực hiện.
Có thể nói cuộc viếng thăm của Mẹ Maria cũng là cuộc viếng thăm của Con Thiên Chúa đến với gia đình ông Giacaria, và mai ngày Thiên Chúa sẽ đến viếng thăm toàn thể nhân loại. Cuộc viếng thăm ấy không chỉ làm cho hài nhi Gioan nhảy lên vui sướng mà làm cho toàn thể nhân loại được hân hoan sướng vui.
Giáng Sinh cũng là dịp để các cá nhân và các đoàn thể Công giáo tại các xứ đạo trao tặng quà Giáng sinh cho những người nghèo khổ, già yếu bệnh tật, bất hạnh, đặc biệt là cho các anh chị em lương dân nghèo. Chớ gì ta có thể nói với người khác rằng mùa Noel năm nay, tôi tốn tiền cho người nghèo quá, thay vì nói tôi tốn tiền mua sắm quá. Tình yêu cho đi thì chắc chắn niềm vui sẽ ở lại, và niềm vui đến từ tình yêu cho đi luôn là niềm vui lớn, niềm vui sâu lắng.
Và điều quan trọng hơn nữa mà chúng ta cần lưu tâm đó là biết cho đi chính Chúa, tức là biết đem Chúa đến cho người khác. Chúa Giêsu chính là quà tặng vô giá mà Mẹ Maria đã đón nhận và trao tặng lại cho bà Elisabet và cho toàn thể nhân loại chúng ta.
Chúng ta hãy học nơi Mẹ sự cho đi quá ư đặc biệt này. Để rồi biết cho đi chính Chúa. Người đời có thể cho của cải vật chất và họ có thể cho đi thật nhiều. Nhưng họ không thể cho đi chính Chúa. Phần chúng ta, là những người Kitô hữu, có thể chúng ta không có của cải vật chất để để trao tặng, để cho đi; nhưng ai trong chúng ta cũng có thể trao tặng Chúa cho người khác, nhất là cho những anh chị em lương dân. Vấn đề là ta có ý thức về điều này hay không, và nếu có ý thức thì ta có mạnh dạn để đem Chúa đến cho họ hay không. Có Chúa là có tất cả. Bà Elisabet đã cảm nghiệm sâu xa điều này. Dĩ nhiên, đem Chúa đến cho người mình thăm viếng không có nghĩa là mình phải nói thật hay thật nhiều về Chúa cho người họ nghe. Rất nhiều người nói về Chúa rất nhiều rất hay, nhưng thật sự không mang Chúa trong mình. Chúa là tình yêu, do đó mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi chính mình biết yêu thương họ thật lòng.
Xin Mẹ Maria giúp mỗi người chúng ta luôn biết tích cực sống tinh thần cho đi theo gương Mẹ, để mọi người đón nhận được Chúa và niềm vui vì có Chúa ở cùng. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

SUY NIỆM 3: CHÚA LUÔN THÀNH TÍN
Trong bài đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa đã dùng miệng Ngôn sứ Mi-kha mà hứa với chúng ta rằng: “Hỡi Bê-lem Ép-ra-ta, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện 1 vị có sứ mạng thống lãnh It-ra-en. Vị ấy sẽ chăn dắt họ, và họ sẽ được an cư lạc nghiệp”.
Thưa anh chị em, lời hứa ấy đã được thực hiện khi Thiên Chúa sai sứ thần Gabrien đến truyền tin cho Đức Maria. Và người mang sứ mạng chăn dắt dân không ai khác, mà là chính Đức Giêsu, Ngôi Hai giáng sinh làm người. Điều này muốn nói với chúng ta rằng, Thiên Chúa là Đấng trung tín. Ngài không lừa dối chúng ta bao giờ. Ngài đã hứa là Ngài sẽ làm.
Trong cuộc hội ngộ của Mẹ Maria và người chị họ được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay, bà Êlisabet nói với Mẹ Maria như thế này: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Điều này giúp chúng ta hiểu rằng, sở dĩ Mẹ Maria được diễm phúc như thế, là vì Mẹ đã luôn tin tưởng vững vàng vào những gì mà Thiên Chúa đã hứa với Mẹ.
Xét theo nghĩa này, thì Thiên Chúa cũng sẽ thực hiện nơi cuộc đời của mỗi chúng ta những điều vĩ đại như Chúa đã từng làm nơi Mẹ Maria, khi chúng ta vững lòng tin tưởng vào những gì mà Thiên Chúa đã hứa.
Thế nhưng, Thánh Giacôbê tông đồ cho biết, “Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết”. Vậy trong những ngày mùa Vọng vừa qua, Giáo Hội mời gọi chúng ta làm những việc gì? Có 3 việc làm cụ thể mà mùa Vọng năm nào Giáo Hội cũng không ngừng lặp đi lặp lại:
Thứ nhất, mỗi người hãy đặt trọn niềm hy vọng vào ngày Chúa quang lâm, ngày Chúa lại đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Vậy khi hy vọng vào điều ấy, anh chị em đã sống như thế nào? Anh chị em có sống đúng tinh thần của 1 người ki-tô hữu đang lữ hành trong hy vọng hay không?
Thứ hai, mỗi người sám hối lỗi lầm để canh tân đời sống. Có ai trong chúng ta cho đến giờ phút này vẫn chưa sám hối lỗi lầm, chưa lãnh nhận Bí tích Hòa giải, khi mình đang còn mang trọng tội hay không thưa anh chị em?
Và thứ ba, chúng ta được mời gọi chia cơm sẻ áo với anh chị em xung quanh mình. Có thể là về phương diện vật chất, cũng có thể là về phương diện tinh thần như 1 lời cầu nguyện, 1 sự tha thứ, 1 cuộc giải hòa, hay 1 cuộc thăm viếng những người bệnh tật khổ đau quanh ta, như Mẹ Maria đã làm trong bài Tin mừng. Chúng ta làm được điều đó hay chưa?
Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng này, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người trong chúng ta, hãy noi gương Mẹ Maria, là tin tưởng tuyệt đối vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa. Và khi tin như thế, mỗi người cũng hãy diễn tả bằng những việc làm cụ thể.
Khi làm được điều đó, chắc chắn mùa Vọng năm nay sẽ trở nên thật sự ý nghĩa với mỗi người. Và Hoàng Tử Bình An là Chúa Giêsu sẽ đến và ngự vào tâm hồn của mỗi chúng ta. Amen.
Lm. Antôn

SUY NIỆM 4: NIỀM VUI VIẾNG THĂM
Tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng cho chúng ta chân dung của hai người phụ nữ diễm phúc: Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế và Êlidabet, mẹ Gioan Tiền Hô.
Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ chứa chan niềm vui. Bà Êlidabet vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương; Mẹ nhìn thấy ơn cứu độ mà cả dân tộc của Mẹ mong chờ, niềm vui được tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, niềm vui có Đức Giêsu ở cùng; Để có được niềm vui này, Mẹ đã có một niềm tin tuyệt đối vào lời hứa ơn cứu độ của Thiên Chúa đối với dân tộc Mẹ. Thánh Gioan Baotixita vui mừng “hoan ca” trong lòng mẹ.
Những niềm vui ấy hoà chung làm thành một lễ hội hân hoan tạ ơn Thiên Chúa. Những niềm vui ấy là do ơn Chúa Thánh Thần ban tặng.
Suy niệm về cuộc gặp gỡ kỳ diệu của hai bà mẹ cho chúng ta những bài học bổ ích.
Đức Maria đi thăm người chị họ Êlidabet. Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Mẹ yêu thương nên vẫn lên đường viếng thăm vì yêu thương. Chính tình thương đã thúc đẩy bước chân Mẹ. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo từ xa xưa.
  1. Cuộc viếng thăm lịch sử.
Đây là cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang cũng là giữa hai giao ước cũ và mới.
– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlidabet được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng Êlidabet nhảy mừng vui sướng.
– Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
  1. Cuộc viếng thăm tình yêu.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động thì không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.
Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo khổ, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
  1. Niềm vui thăm viếng
Khi đến thăm bà Êlidabet, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlidabet vui mừng mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlidabet được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Êlidabet là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlidabet đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con Yêu Dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn 2000 năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.
Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.
Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.
Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.
Đức Maria viếng thăm phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Êlidabet. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của người tín hữu.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 5: THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA - CHÚNG TA Ở CÙNG THIÊN CHÚA

Câu chuyện Ðức Maria viếng thăm bà Êlisabét mà chúng ta vừa nghe, hướng chúng ta đến niềm vui Giáng Sinh, mừng Ngôi Hai Thiên Chúa đến ở giữa chúng ta cách đây hơn 2000 năm. Giây phút thiếu nữ Maria thành Nadarét thưa tiếng “xin vâng, lịch sử nhân loại đã mở sang một trang mới: Thiên Chúa làm người và đến ở với con người. Người là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến dựng xây Vương Quốc Tình Yêu, và Vương quốc này sẽ vô cùng vô tận.
Đức Maria đã tin vào lời của sứ thần Gáp-ri-en. Mẹ vội vã lên đường, vượt núi băng đồi trên hành trình hơn 120 km với bao hiểm nguy rình rập để chia sẻ tin mừng trọng đại này. Mẹ đến nhà người chị họ Êlisabét để chăm sóc và giúp đỡ chị mình sắp đến ngày sinh. Một cử chỉ đơn sơ, tế nhị, đầy tình cảm gia đình đủ để làm nẩy sinh một hành động đức tin. Ngay trước khi được sinh ra, hài nhi Gioan đã “nhảy lên trong lòng mẹ” để chào Đấng phải đến, và bà Êlisabét đã nói thay con khi gọi Đức Maria là Thân Mẫu Chúa tôi.
Em thật có phúc vì đã tin. Bà Êlisabét giúp chúng ta khám phá ra rằng, tin là một mối phúc, và bí mật làm cho Đức Maria trở thành người được chúc phúc hơn mọi người nữ, đó là đức tin của Mẹ. Mẹ tin rằng tất cả những gì sứ thần nói với Mẹ đều sẽ được Thiên Chúa thực hiện. Sau tiếng  thưa “vâng” với sứ thần, Mẹ trở thành thân mẫu của Chúa,
Nếu lòng tin và lòng mến thúc đẩy chúng ta đến với những người khác, thì như bà Êlisabét, chúng ta cũng sẽ thấy thân mẫu của Chúa và chính Thiên Chúa đến với chúng ta. Vì mọi hành vi bác ái, dù có đơn sơ, tầm thường đến đâu cũng đều biểu lộ dung mạo của Ðức Giêsu. Sống bác ái là cách đẹp nhất và chắc chắn nhất để chúng ta nói về Chúa.
Bà Êlisabét không chỉ đại diện cho những người mẹ tương lai mong chờ một cuộc thăm viếng thân tình mang đến sự hiện diện, niềm an ủi và sự nâng đỡ trong những thời điểm quan trọng, mà còn là hình ảnh của vô số những bệnh nhân, những người già yếu, bị bỏ rơi, cô đơn trong các viện dưỡng lão, các trẻ em đường phố, những tù nhân bị lãng quên. Tất cả những người đó đang chờ một cuộc thăm viếng, một cuộc gặp gỡ, một sự giúp đỡ... Và tất cả chúng ta, trong một khía cạnh nào đó, đều đang mong đợi một cuộc viếng thăm, một sự nâng đỡ, một ánh mắt cảm thông của người khác, để giúp chúng ta vượt qua những khó khăn hay một mảng tối nào đó trong cuộc đời mình.
Cuộc viếng thăm của Mẹ Maria không chỉ là gương mẫu của sự tận tụy, sẵn sàng phục vụ, mà còn mở ra một viễn cảnh hoàn toàn mới. Việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người không chỉ là việc Thiên Chúa viếng thăm nhân loại, mà từ nay, nhờ cuộc nhập thể của Người, mọi sự giúp đỡ, mọi cuộc thăm viếng chúng ta làm cho người khác là chúng ta đang làm cho chính Chúa. Trong cuộc viếng thăm cuối cùng, có lẽ chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên kêu lên: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã đến thăm Chúa? Và Chúa sẽ trả lời: “Khi các con thăm người đau yếu, tù nhân, người nghèo... và tất cả những người khác, là các con đã viếng thăm chính ta. (xem Mt 24,31-46).
Thiên Chúa từ trời cao đã bước xuống với nhân loại, nhưng Người chờ tiếng “xin vâng của con người để có thể bước vào căn nhà tâm hồn của họ. Hôm nay, Chúa vẫn đang chờ đợi lời đáp trả đón nhận hoặc khước từ của mỗi người chúng ta. Trong sách Khải Huyền, cuốn sách cuối cùng của Kinh Thánh, Chúa nói với chúng ta rằng: Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta (Kh 3,20).
Chỉ còn mấy ngày nữa là lễ Giáng Sinh, người người, nhà nhà đều đang tất bật chuẩn bị để mừng lễ. Nhưng giữa những bận rộn và ồn ào đó, chúng ta có nghe được tiếng gõ cửa của Chúa để mời Người vào nhà không? Vì sẽ thật vô lý khi chúng ta chuẩn bị thật nhiều thứ, thật long trọng để mừng Chúa đến, nhưng khi Chúa đến, chúng ta để Người cứ đứng ngoài cửa và gõ, còn chúng ta tự mừng lễ với nhau mà không có Người.
Lễ Giáng Sinh là lễ của Chúa Cha dâng Con Một mình để cứu chuộc nhân loại, lễ của con người trong niềm vui và hy vọng. Còn chúng ta, chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa? Món quà cao quý nhất dâng cho Người, phải chăng là đón nhận Người và đón nhận anh chị em mình, nhất là những ai đang cần đến chúng ta?
Cầu chúc anh chị em chuẩn bị lễ Giáng Sinh vui tươi và sốt sắng! Ước mong rằng, mỗi chúng ta đều nghe được tiếng Chúa và đón Người vào nhà, để lễ Giáng Sinh là lễ của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta, và cũng là lễ của “Chúng ta ở cùng Thiên Chúa!
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

SUY NIỆM 6: THA NHÂN ĐƯỢC CHÚC PHÚC  
Người môn đệ Chúa với khoé nhìn “tha nhân là người được Chúa chúc phúc”
Tuần thứ IV Mùa vọng, chúng ta chiêm ngắm Khuôn mặt Mẹ Maria và những tâm tình nhân hậu của Mẹ với người khác, qua tường thuật Tin mừng của Thánh Luca về việc Mẹ đi thăm bà Elisabeth.
Cuộc sống của chúng ta là những cuộc gặp gỡ nhiều người, nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều sắc thái và nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Cuộc gặp gỡ của Maria và Elisabeth khá đặc biệt, theo lời tường thuật của Luca. Họ là hai người phụ nữ  – lớp người thuộc vào hạng không mấy quan trọng trong xã hội thời đó. Một điều đặc biệt hơn nữa, nếu chúng ta nhìn dưới góc độ văn hóa, tôn giáo và xã hội: Maria, cô thiếu nữ chưa làm đám cưới (dù đã đính hôn, nhưng Giuse chưa rước cô về nhà để chung sống), chưa sống chung mà đã mang thai (có thể bị gán cho tội “không đứng đắn”, phạm tội ngoại tìnhvà sẽ bị ném đá). Bà Elisabeth, người phụ nữ đã già mà chẳng sinh con; người đàn bà son sẻ, hiếm muộn có thể bị gán cho số phận không may mắn, bị sỉ nhục và “bị chúc dữ”(xem St 29,31; 1Sm 1, 10; Is 4,1; Lv 20,20-21; 2Sm 6, 23).
Dưới mắt người đời thời đó, và theo khóe nhìn tôn giáo và văn hóa Do thái giáo, ít nhất là chúng ta có thể “giả định”, hai phụ nữ này chẳng có gì để đem ra ca tụng. Hơn thế, ta phải nói đến chuyện một người sẽ bị đem ra ném đá và người kia có thể được gọi là “kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ”. Điểm đáng nói nữa là chuyện hai người phụ nữ khi gặp gỡ, họ còn chào và gọi nhau là “đầy ơn phúc”, “được chúc phúc”. Họ muốn “tung hô nhau” hay tự “xông hương” cho nhau chăng? Họ thật sự “có phúc” không, và “phúc’ của họ là gì, từ đâu mà có?
Họa hay phúc, ta có thể đánh giá rất chủ quan và có thể bị sai lệch. Có thể  mọi sự sẽ xảy ra như chuyện “Tái ông thất mã”, và cuộc sống xem ra là là một chuỗi dài của chuyện “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”…
Từ câu chuyện của Maria và Elisabeth, chúng ta có thể nói rằng chỉ có ai là “người trong cuộc” mới có thể hiểu được mối phúc mà hai người phụ nữ này có được. Đó là điều kỳ diệu mà Thiên Chúa muốn làm, hay nói cách khác, là chuyện Thiên Chúa can thiệpcách đặc biệt vào cuộc đời của họ. Maria và Elisabeth chính là “những người trong cuộc”, là những người bị “dính vào chuyện của Thiên Chúa”. Và từ đó, thái độ của hai người phụ nữ ấy càng đặc biệt hơn khi họ biết nhìn ra hạnh phúc thật nơi những điều mà người thế gian cho là bất hạnh. Thật thế, chúng ta có thể kể ra những điểm sau:
1) Cả hai người phụ nữ nhận ra thân phận bé mọn của mình; họ “biết mình” bằng sự khiêm tốn chứ không vì tự ti, mặc cảm. Bởi thế họ mới có thể reo lên Linh hồn tôi ca ngợi Đức Chúa, tâm trí tôi hớn hở vui mừng.
2) Họ hiểu rằng ngay chính nơi sự cùng khốn của mình, Thiên Chúa đã làm những điều cao trọng. Từ đó họ tuyên xưng rằng Người là Đấng Quyền năng vàdanh Người chí  thánh chí tôn, là Đấng trung tín và giàu lòng yêu thương – Chúa hằng “thương xót những ai kính sợ Người”.
3) Họ tin rằng những điều cao trọng đã và đang xảy ra cho mình không phải do ý muốn riêng đạt được hay đó là phần thưởng xứng hợp với công trạng của mình, nhưng là do Thánh ý Thiên Chúa và lời giao ước tình yêu của Người với nhân loại, qua dân Israel, với cha ông của họ từ thưở trước.
4) Họ không bận tâm quá nhiều đến chuyện xầm xì của thế gian về những bất hạnh của riêng mình cho bằng phó thác tất cảmọi sự vào tình yêu thương, lòngtrung tínvàsự công minh của Thiên Chúa từ đời nọ trải qua đời kia.
Mẹ Maria và bà Elisabeth đã nhìn nhau và nhận ra nơi mỗi người hồng ân của Thiên Chúa, rồi gọi nhau bằng tên gọi của những “người được chúc phúc” hay là “người có phúc”. Còn chúng ta? Khóe nhìn nào mà chúng ta có được khi hướng tới tha nhân?
Hãy nhìn thực tế cuộc sống bên ngoài cộng đoàn chúng ta: Khắp nơi đầy dẫy những chuyện ghen ghét, lọc lừa. Người ta đánh giá nhau dựa vào những gì bên ngoài hay ở “bề nổi”. Nhiều bạn trẻ đã không dám nhìn vào người khác, vì một cái nhìn bị cho là “đểu” có thể là nguyên nhân vô duyên nhất gây nên cái chết oan khiên của một mạng người. Sự đố kị, cạnh tranh, chèn ép có mặt ở khắp nơi… Có lẽ khi con người lấy tiền tài, vật chất và vẻ hào nhoáng bên ngoài làm thước đo các giá trị và là mục đích tối thượng thì người ta sẽ nhìn tha nhân với một khóe nhìn tiêu cực: “Tha nhân là địa ngục của tôi”, nói như triết gia Jean Paul Sartre. Và cứ theo kiểu như vậy, người đứng trước mặt tôi luôn là “nguy cơ”, chính là “tai họa” và là “đầu mối của mọi rắc rối” cho tôi! Từ đó, trong các mối tương quan nhân vị, sự lựa chọn bắt buộc sẽ nhằm vào việc triệt thoái hay hạ bệ lẫn nhau. Khi ta không còn khả năng nhìn ra được điều tốt lành nơi người khác, thì ta chẳng còn biết yêu thương hay trân trọng ai cả.
Quay lại nhìn cuộc sống hằng ngày bên trong mỗi cộng đoàn ki tô hữu, chúng ta có thể thấy thêm điều gì? Thưa, đó là sự đố kị, tiếng xầm xì, lời trách cứ, chuyện chê bai cách công khai hay ngấm ngầm và việc xúc phạm đến nhau, sự tự tôn, sự tự ty, óc bè phái,…Tất cả chính là thuốc độc làm hao mòn, gặm nhấm các phần tử và tàn hại thân xác mầu nhiệm của Chúa Kitô. Bên trong các cộng đoàn kitô hữu còn có cả căn bệnh tính toán, so đo thiệt hơn hoặc kiểu hành xử theo chiều hướng khác của bệnh dửng dưng, vô cảm; của lối sống cá nhân ích kỷ và thiếu trách nhiệm. Đây là điều mà trước đây Thánh Phaolo đã nhắc nhở các tín hữu trong các cộng đoàn của ngài, và giờ đây, vẫn còn là một thực tế mà mỗi chúng ta có thể trải nghiệm.
Như Mẹ Maria, mỗi chúng ta có thể làm gì? Hãy học biết cách sống khiêm cung và biết đón nhận cuộc sống như một tặng ân vô giá, là hồng ân được hiệp thông vào Đấng yêu thương và cũng chính là Cùng Đích cao trọng mà mỗi chúng ta khao khát đạt đến.
Như Mẹ Maria, ta hãy biết vui mừng vì được Chúa yêu thương, biết tạ ơn vì được Chúa gọi mời cộng tác với Ngài.
Như  Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn anh chị em của mình bằng ánh mắt khiêm cung và trái tim rộng mở, biết cảm thông và bao dung hơn khi đón nhận người khác, để nhờ đó ta có thể đọc ra dấu chỉ tình yêu và hồng ân mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người và nơi mọi người; như chính Người “đã cho mặt trời chiếu sáng trên người lành cũng như trên kẻ dữ” (Mt 5, 45).
Bước vào những ngày cuối của Mùa Vọng, chúng ta hãy chuẩn bị cùng Mẹ lên đường mang Chúa đến cho người khác như mang một quà tặng quý giá của tình yêu thương, niềm cảm thông lớn lao hơn cả cho mọi người giữa thế giới mà tình người đang có nguy cơ bị hoang mạc hoá.
Lm. Barnaba Lê An Phong

 SUY NIỆM 7:  

Chúa nhật I Mùa Vọng, Giáo hội thắp lên một ngọn nến màu tím tượng trưng cho sự tha thứ của Adam và Evà, đồng thời cùng với con cái mình vươn tâm hồn lên tới Chúa (Ad Te levavi).
Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo hội mặc lấy tâm tình của dân Sion, tâm tình của người trong tư thế nghênh đón chờ Chúa đến (Populus Sion ) và thắp lên ngọn nến thứ hai, tượng trưng cho Đức tin của của Áp-ra-ham và các tổ phụ, là những người đã tin rằng có những món quà Thiên Chúa dành cho trong vùng Đất Hứa.
Sang Chúa nhật III Mùa Vọng, niềm vui trào dâng, màu sắc Phụng vụ từ tím chuyển sang hồng, nhất là bài Ca nhập lễ lấy lại lời của Thánh Phaolô gửi tính hữu Philipphê: Vui lên anh em – Gaudete … Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…vì Chúa dã gần kề. Giáo hội thắp lên một ngọn nến hồng, tượng trưng cho niềm vui của David có dòng dõi ông sẽ trường tồn vạn kỷ. Điều này đã chứng minh cho giao ước của Thiên Chúa
Và đây là Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, sự nóng lòng mong chờ Chúa đến được thể hiện thật rõ nét. Có lẽ dân chúng không thể nén lòng mà trông đợi được nữa, nên đã cất cao giọng, mong rằng tiếng họ kêu được thấu tời Trời: Rorate … Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa, mưa Đấng Công Chính. Giáo hội thắp lên ngọn nến thứ tư, tượng trưng cho giáo huấn của các tiên tri đã loan báo một triều đại của công lý và hòa bình. Phụng vụ Lời Chúa diễn tả niềm vui của Dân Chúa: “Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi”(Dc 2, 8).
“Này đây Đức Vua đang ngự đến, nào chúng ta mau đến trước nhan Đấng Cứu Độ chúng ta” (Phụng vụ Mùa Vọng). Vua Sa-lô-môn cũng đã nói rõ: “Tựa nước mát khi cổ họng ráo khô. Nước bị đục, suối bị dơ, chính nhân bị kẻ gian ác làm nghiêng ngửa.(Cn 25,25). Quả thật, những lời trên loan báo Đấng Cứu Thế đến, Ngài đến để đem bình anh cho nhân loại, Ngài đến làm cho nhân loại hoà giải với Thiên Chúa Cha, quốc gia hòa giải quốc gia, người người hòa giải người người. Đúng như lời ngôn sứ Isaia loan báo: “Bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xi-on rằng: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị”(Is 52,7) …
Giống như những sứ giả, loan báo dòng suối mát trong lành tuôn đổ xuống trên những tâm hồn khát của tc. Họ loan tin Thiên Chúa đến, Ngài là nguồn nước uống của chúng ta “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.” (Is 12:3).
Chính vì thế mà dường như người mang tin như Đức Maria, tâm hồn Mẹ tràn ngập niềm vui khi nhận lại được những lời của bà Elisatbét ,và người nhận được tin là bà Elisabét cũng có niềm vui khôn tả siết, nên đã thốt lên Thần: “Bởi đâu tôi được Thiên Chúa Mẹ Thiên Chúa tôi đến với tôi thế này? Lý do là cả người nhận lẫn người đưa tin đều vui mừng khôn sách, là vì cả hai đều đã được tưới gội bởi cùng một nguồn suối mát là chính Chúa Thánh Thần: Lúc đó, những tiếng vọng lên bên tai Mẹ Marai, thần trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi.”
Vì thế, ngày nay nhân loại hân hoan vui mừng khôn tả siết khi sắp được gặp gỡ Chúa Kitô, và lấy lời Thánh Vịnh mà kêu lên với nhau rằng: “Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn, xót xa phận mình mãi làm chi? Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người, Người là Ðấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi! (Tv 42,5)
Ước gì tâm hồn chúng ta ngày hôm nay, khi đang nô nức mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Con Một Chúa, và đón chờ Chúa đến làn thứ hai trong vinh quang của Thiên Chúa là Cha. Chúng ta cũng nhảy mừng hân hoan trong niềm vui của Chúa, và nô nức đến gặp Thiên Chúa niềm vui của lòng chúng ta và thân thưa với Ngài với những lời này: “Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ. Lạy Chúa, xin thương giúp thành công. (Tv 117,25-26).
Lễ Giáng Sinh đã gần kề, chắc chắn tâm hồn mỗi người tín hữu chúng ta cũng cảm nếm được niềm vui linh thiêng ấy khi thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ vì nghe lời chào của Đức Maria. Cuộc gặp gỡ diệu kỳ của một Vì Thiên Chúa và thánh Gioan Tiền Hô diễn ra trong cung lòng của hai bà mẹ. Đây quả là Tin Vui cho những ai mong đợi ngày cứu độ của Thiên Chúa.
Xin cho nhân loại khắp hoàn cầu cảm nhận được niềm vui ơn cứu độ khi cử hành lễ sinh nhật Con Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

SUY NIỆM 8: NHỮNG CÁCH VIẾNG THĂM   

Sống ở đời “Không ai là một hòn đảo”, vì con người sống là sống cùng sống với và sống cho. Chính vì vậy, viếng thăm nhau không chỉ là chuyện bình thường trong cuộc sống mà còn để chu toàn bổn phận và thể hiện lòng bác ái yêu thương. Có nhiều cách viếng thăm. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm gương viếng thăm của Đức Maria. Từ đó, chúng ta suy ngắm gương viếng thăm của Đức Giêsu và gần đây là gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Cuối cùng, chúng ta tìm hiểu một chút về những cuộc thăm viếng của con người hôm nay để rút ra những bài học cho bản thân.
Thứ nhất, gương viếng thăm của Đức Maria
Khi nghe tin bà Êlizabét, người họ hàng với mình, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai được sáu tháng (x. Lc 1,36). Đức Mẹ nghĩ rằng: Tuổi già là tuổi cần chăm sóc giúp đỡ. Hơn nữa, tuổi già mà còn mang thai thì lại cần phải chăm sóc hơn. Chính vì vậy, Mẹ đã “vội vã lên đường” đi thăm bà chị họ. Sau cuộc hành trình dài đầy gian nan, Mẹ đã gặp được bà Êlizabét. Đây là cuộc gặp gỡ mang tính lịch sử, vô tiền khoáng hậu. Sáu tháng nay, bà Êlizabét sống trong niềm vui mừng. Chắc chắn hằng ngày không ngớt dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì đã cất nỗi khổ nhục son sẻ của hai ông bà, đã cho bà cưu mang con trong tuổi già. Nay niềm vui đó được nhân lên vì có Đức Maria đến viếng thăm. Ngoài Mẹ ra, còn có Chúa Giêsu mà Mẹ đang cưu mang trong lòng. Bà Êlizabét đã nhận ra điều đó khi đứa con trong lòng mình “nhảy mừng”. Bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”(Lc, 43,45).
Hiệu quả của cuộc viếng thăm này vô cùng to lớn: Đem niềm vui đến cho cả gia đình ông Giacaria; Thánh Gioan được khỏi tội tổ tông truyền ngay từ trong lòng Mẹ; bà Êlizabét được Mẹ giúp đỡ trong những ngày thai nghén sinh nở. Tinh thần thăm viếng không dừng lại ở đó, Mẹ vẫn tiếp tục thăm viếng con người. Đáng kể nhất là cuộc thăm viếng tại tiệc cưới Cana: Mặc dầu giờ chưa đến nhưng nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước hoá thành rượu ngon để làm vui lòng gia đình chủ tiệc. Khi đã về trời, Mẹ cũng không ngừng viếng thăm nhân loại. Đó là những cuộc viếng thăm: Ở Lộ Đức năm 1858; tại Lavang năm 1798; ở Fatima năm 1917. Và rất nhiều cuộc viếng thăm khác của Mẹ nhằm mục đích thi ân giáng phúc cho con cái loài người.
Thứ hai, gương viếng thăm của Đức Giêsu
Vâng lệnh Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế mang thân phận của một con người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã đi khắp mọi nơi, gặp gỡ mọi người: Đến với miền Samari; miền duyên hải Tirô-Siđôn; miền Ghêrasa. Đối tượng viếng thăm của Ngài là phổ quát: Ngài đến với những người tội lỗi; với những người bệnh tật; với những người có chức quyền danh vọng. Ngài đến với họ để mong muốn biến đổi họ: Một Lêvi trở thành Mathêu Tông đồ; một Giakêu người thu thuế trở thành người biết cho đi; một Maria Mađalêna tội lỗi trở thành một vị thánh. Nhờ những cuộc viếng thăm của Ngài, những người bệnh hoạn tật nguyền trở thành những người khoẻ mạnh: Người mù thấy được; người què đi được; người điếc được nghe; người bệnh được khỏi. Nhờ Ngài viếng thăm mà con trai bà goá thành Naim, con gái ông Giaia và ông Lazarô chết rồi được sống lại.
Không thể kể hết ra đây những hiệu quả mà những cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu mang lại cho con người. Ngài viếng thăm ai là biến đổi cuộc đời của họ trong niềm vui và sự bình an.
Thứ ba, gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô
Tiếp tục tinh thần của Đức Mẹ và Chúa Giêsu, Giáo hội qua mọi thời đại vẫn đến với muôn dân. Gần đây nhất phải kể đến những cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài đã đi khắp nơi, đến với mọi hạng người: Đến với những người vô thần; đến với những người Do thái giáo; đến với những người Anh giáo; đến với những người Hồi giáo; đến với những người Chính thống giáo; đến với tù nhân; đến với những người tị nạn; đến với những người nghèo; đến với những người thất nghiệp; đến với các bệnh nhân. Ngài đến để đem niềm vui và trao ban tình thương cho họ. Tình yêu thương của Ngài đã chạm đến trái tim từng người mà Ngài gặp gỡ. Xin được trích dẫn một bằng chứng: “Tờ Washington Post, xuất bản tại Hoa Kỳ, trong số đề ngày 6 tháng 11 năm 2013, nữ ký giả Elizabeth Tenety đã viết bản tin có tựa đề Đức Giáo Hoàng Phanxicô ôm một người đàn ông có dị tướng tại quảng trường thánh Phêrô. Đức Thánh Cha đã âu yếm ôm hôn người tật bệnh này vào cuối buổi triều yết chung, ngày thứ Tư 6 Tháng 11 năm 2013. Bệnh nhân có diện mạo và thân thể rất kỳ dị đáng thương đến nỗi nhiều người cho rằng ông ta không còn có hình dạng con người. Ký giả tờ Washington Post viết rằng: Nếu phải dùng từ ngữ thì cần cả ngàn từ mới diễn tả được ý nghĩa Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật đã nhanh chóng được phổ biến trên các mạng lưới xã hội và nhiều cơ quan thông tấn quốc tế đã đưa bản tin đặc biệt này. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn và cầu nguyện cho người dị tật làm nhiều người tưởng nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu đã chữa những người phong cùi, và thánh Phanxicô Assisi đã săn sóc người tật bệnh nghèo đói”(Theo Nguyễn Long Thao).
Ông cho biết việc gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô “như ở trên Thiên Đàng vậy” và cuộc gặp gỡ này là khởi điểm mới của cuộc đời ông. Người đàn ông bất hạnh nhưng có phước này bày tỏ cảm nhận của mình khi được chính vị giáo hoàng ôm lấy như sau:
“Đôi tay của ngài hết sức mềm dịu. Và nụ cười của ngài rất ư là tươi nở. Thế nhưng cái đánh động tôi nhất đó là việc ngài không lưỡng lự về việc có nên ôm lấy tôi hay chăng. Tôi không gây lây nhiễm, nhưng ngài đâu có biết như thế. Ngài chỉ biết làm điều ấy thôi: ngài đã ve vuốt cả khuôn mặt của tôi và khi ngài làm thế thì tôi chỉ cảm thấy rằng mình được yêu thương. Trước hết ngài đã hôn lấy bàn tay của tôi, trong khi bàn tay kia của ngài mơn trớn đầu tôi và các vết thương của tôi. Sau đó ngài kéo tôi vào mà ôm chặt lấy tôi, hôn lên gương mặt của tôi. Đầu của tôi dựa vào ngực của ngài, hai cánh tay của ngài ôm choàng lấy tôi. Điều này kéo dài hơn một phút, nhưng đối với tôi nó dường như là vô tận” (Theo Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phóng dịch theo http://www.zenit.org/en/articles/severely-disfigured-man-embraced-by-pope-gives-interview).
Thứ tư, những cuộc viếng thăm của con người hôm nay
Họ viếng thăm nhau bằng nhiều cách: Có những cuộc viếng thăm để khử trừ nhau. Có những cuộc viếng thăm vì ngoại giao. Có những cuộc viếng thăm chỉ vì lợi ích phe nhóm. Có những cuộc viếng thăm vì lợi ích của bản thân mình: Vì tiền bạc; vì chức quyền danh vọng; vì tình cảm ngang trái. Có những cuộc viếng thăm vì bổn phận. Có những cuộc viếng thăm vì tình yêu thực sự: Thăm viếng bệnh nhân; thăm viếng người tù tội; thăm viếng cha mẹ già yếu; thăm viếng người tàn tật, neo đơn; thăm viếng những người cần sự thăm viếng để động viên, yên ủi và giúp đỡ họ.
Với chúng ta hôm nay, chắc chắn Chúa muốn chúng ta noi gương Đức Maria, Đức Giêsu và Đức Thánh Cha Phanxicô. Đối tượng viếng thăm của chúng  ta phải là phổ quát. Những cuộc thăm viếng của chúng ra phải phát xuất từ tình yêu thực sự. Chúng ta là hiện thân của Chúa để đem niềm vui và bình an đến với mọi người. Nói về vấn đề này, tôi sực nhớ tới câu chuyện ấn tượng trong cuộc đời mục vụ của tôi: Có ông cụ nọ, trạc tuổi 80. Dù tuổi cao, lại bị bệnh nằm liệt giường nhưng ông cụ vẫn còn minh mẫn. Mỗi lần thấy tôi đến viếng thăm, ông cụ đều cất tiếng chào: Kính chào Chúa Giêsu. Ông còn giải thích cho mọi người hiểu: Cha là Chúa. Lời ông cụ giúp tôi tự nhắc nhủ mình rằng: Tôi phải thực sự là hiện thân của Chúa khi đến với anh chị em mình.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết ra khỏi chính mình để đến với anh chị em xung quanh. Xin cho những cuộc viếng thăm của chúng con không phải vì tiền bạc, của cải, danh vọng nhưng đem niềm vui và tình thương của Chúa đến với mọi người. Để những cuộc viếng thăm của chúng con thực sự là hiện thân của Chúa với những người chúng con gặp gỡ. Amen.

Lm. Anthony Trung Thành


SUY NIỆM 9: MARIA, NGƯỜI MẸ CỦA MÙA VỌNG
Thưa anh chị em,
Nếu chúng ta để ý thì trong mùa Vọng có những mẫu gương tiêu biểu cho việc trông chờ Đấng cứu độ. Chẳng hạn như: Tư tế Giacaria, Gioan tẩy giả, cụ già Simêon, bà tiên tri Anna và cuối cùng là Mẹ Maria, nhưng càng gần đến lễ giáng sinh, thì vai trò của Mẹ Maria nổi bậc trong các bài đọc Thánh kinh. Tại sao vậy!. Thưa, bởi vì Mẹ Maria đóng một vai trò hết sức quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sách Sáng Thế ngay từ những chương đầu đã kể lại: Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa không bỏ mặc con người trong chốn tội lỗi, để cho ma quỷ thống trị, nhưng liền ngay tức khắc, Ngài hứa ban Đấng cứu độ bằng những lời lẽ như sau: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ…. Người phụ nữ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người” (St 3,15). Người phụ nữ đó chính là Đức trinh nữ Maria.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho con người, nhưng để chương trình ấy thành công thì cần có sự tham gia cộng tác của con người. Chương trình đầu tiên của Thiên Chúa đã bị thất bại, do bởi ông bà nguyên tổ nghe lời ma quỷ hơn nghe lời Chúa, đã làm theo ý riêng mình hơn theo ý Chúa.
Trái lại, Mẹ Maria được Thiên Chúa mời gọi, nhờ cộng tác bằng lòng tin và sự khiêm nhường, nên chương trình cứu độ của Thiên Chúa bắt đầu thực hiện.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong thôn làng Nazarét nào có cái chi hay!. Ngày ngày với những công việc rất đỗi bình thường như bao cô thiếu nữ khác. Ví dụ như: Bếp núc, may vá, dọn dẹp nhà cửa… Nhưng chính trong chốn lặng thầm ấy, thì Đức Mẹ được Chúa chọn làm Mẹ Đức Chúa Trời.
Đức Mẹ khiêm nhường trong cách ứng xử. Khi sứ thần Gabriel báo tin “Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu”. Thì Đức Mẹ khiêm tốn đáp lại: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Trong biến cố thăm viếng, bà Êlisabét chúc mừng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm”, thì Đức Mẹ đáp lại “Phận nữ tì hèn mọn, được Chúa đoái thương nhìn tới, nếu được ơn này ơn nọ là do hồng ân nhưng không Chúa cho thôi”.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống phục vụ. Tin mừng thánh Luca ghi lại, vừa hay tin chị họ Êlisabét mang thai trong lúc tuổi già, Mẹ Maria vội vã lên đường vượt núi băng rừng, bất chấp đường xá xa xôi. Mẹ đến đó chia sẻ niềm vui với chị, đồng thời ở lại phục vụ giúp đỡ chị ba tháng trời, sau đó mới trở về nhà mình.
 Thưa anh chị em,
Cũng trong biến cố thăm viếng này, bà Êlisabét chúc khen Đức Mẹ “Phúc cho Bà, vì Bà đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà đã được thực hiện”.
Thật vậy, làm sao mà tin được, khi muốn giữ mình đồng trinh thuộc trọn về Chúa, mà bây giờ Chúa bảo sẽ mang thai, mà không theo quan hệ vợ chồng – nhưng Mẹ vẫn tin đó là do quyền năng Chúa Thánh Thần, vì không có việc gì mà Chúa không làm được.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa giàu có vô cùng, vậy mà giờ đây phải hạ sinh trong hang đá nghèo khó – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Đấng tác thành vũ trụ, đã mặc xác con người.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa Đấng cầm quyền sinh tử vạn vật, mà bây giờ phải nhờ đôi tay Đức Mẹ bồng bế trốn sang Aicập. Nhưng Mẹ vẫn tin đó là Thiên Chúa rất đổi khiêm nhường, giầu lòng xót thương.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa là cõi nguồn hạnh phúc, mà bây giờ lao nhọc vất vả nơi xưởng mộc, mồ hôi đổi lấy bát cơm – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Thiên Chúa làm người, là Chúa đất trời.
Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa đã tự xưng mình: Ta là sự sống lại và là sự sống, mà bây giờ bị con người ngược đãi giết chết trên thập giá – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Đấng mang nguồn cứu độ, đã chịu chết cho con người.
 Các nhà thánh mẫu học nói rằng: Ngày xưa, bà Evà đã nghi ngờ tình thương của Chúa, giơ tay hái trái cấm, đánh mất ân sủng, làm cho cửa thiên đàng đóng lại. Thì bây giờ nhờ lòng tin của Mẹ Maria, đã đem lại cho nhân loại ơn giải thoát và cửa thiên đàng được mở ra.
Ngày xưa bà Evà do không vâng phục, nghe theo lời ma quỷ xúi giục, đưa nhân loại đến sự chết. Thì nay, nhờ lời xin vâng của Đức Maria, đã đưa nhân loại đến sự sống.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta không biết khi đi thăm viếng, Mẹ Maria mang theo những gì, nhưng chắc rằng: Đức Mẹ mang Hài Nhi Giêsu đến thăm gia đình ông Giacaria.
Nhờ sự hiện diện của Đức Maria, mà Chúa Thánh Thần đã thánh hoá gia đình này một cách đặc biệt: làm cho ông Giacaria nói được sau hơn 9 tháng bị câm, làm cho bà Êlisabét nhận ra Mẹ Maria không những là em của mình, nhưng còn là Mẹ Thiên Chúa, và Gioan Tẩy giả được sạch tội tổ trước khi chào đời. Như vậy, Đức Mẹ thăm viếng là một hồng ân.
Vậy mỗi khi rước lấy Chúa Giêsu vào lòng, chúng ta noi gương Đức Mẹ là mang Chúa đến cho người khác. Để Chúa ban ơn bình an và phúc lành của Ngài cho những người chúng ta gặp gỡ.
Cuối cùng, ai trong anh chị em ít là một lần trong đời được bạn bè hay những người thân quen mời đi tham dự sinh nhật. Khi đi mừng sinh nhật, chắc chắn chúng ta mang quà đi mừng người ấy.
Năm xưa, khi Chúa giáng sinh ở Belem, các chú mục đồng và ba nhà Đạo sĩ mang quà đến mừng sinh nhật Chúa. Vậy, mừng sinh nhật Chúa, anh chị em có chuẩn bị quà mừng gì cho Chúa chưa?. Và nếu có thì món quà đó là gì?. Chắc chắn Chúa không đòi chúng ta quà mừng như: vàng, nhủ hương và mộc dược, nhưng Ngài thích món quà nơi tấm lòng mỗi người chúng ta thôi.
Cho nên hôm nay Chúa Nhật cuối của mùa Vọng, chúng ta được mời gọi để cùng nhìn lên Mẹ Maria, người Mẹ của mùa Vọng, là mang niềm hi vọng Giêsu đi đến những nơi thiếu vắng tình thương, những người đang cần sự giúp đỡ, những mảnh đời lây lất bên vệ đường, nhờ sự viếng thăm của chúng ta, sẽ đem lại cho họ niềm hi vọng và phúc lành của Chúa trong đêm giáng sinh. Đó là món quà sinh nhật ý nghĩa nhất mà Chúa hài nhi đang mong chờ. Amen.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây