CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN - NGÀY 2/2 DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH

Thứ sáu - 31/01/2025 22:35
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN - NGÀY 2/2
DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH
Ml 3, 1-4; Dt 2, 14-18; Lc 2,22-40

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
22 Khi đã đủ thời gian, đến ngày các ngài phải được thanh tẩy theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa”.
24 Ông bà cũng lên để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.
26 Ông đã được Thánh Thần linh báo là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa.
27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để làm điều người ta quen làm theo luật dạy, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những điều người ta nói về Người.
34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.
35 Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà. Như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.”
36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ là bà An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
39 Khi hai ông bà đã hoàn tất mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về thành của mình là Na-da-rét, miền Ga-li-lê.
40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

SUY NIỆM: NGƯỜI ĐẾN GẶP DÂN NGƯỜI
Dẫn lễ :
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Theo sách Xuất hành, Thiên Chúa đã dạy Môisen truyền cho dân rằng : tất cả các con trai đầu lòng phải được thanh tẩy và hiến dâng cho Thiên Chúa vì chúng thuộc về Chúa và là người phục vụ Chúa.
Là gia đình đạo đức, thánh Giuse và Đức Marria đã thi hành luật, bằng việc hôm nay đem Chúa lên đền thánh cử hành lễ nghi theo lề luật để dâng hiến cho Thiên Chúa. Từ đó, tuy vẫn gắn bó với Đức Mẹ và thánh Giuse, nhưng Chúa Giêsu luôn sống chu toàn ơn gọi sứ mạng mình : Là trở nên ánh sáng cứu độ muôn dân.
Chúng ta hãy xin cho mỗi người chúng ta ý thức đến ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, ngày mà chúng ta thuộc về Chúa, để chúng ta luôn biết sống ơn gọi người Kitô hữu và trở thành ánh sáng cho những người xung quanh. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các bà mẹ hôm nay đem con em mình đến dâng cho Chúa, xin Chúa thánh hóa các em, để thêm tuổi thì thêm ân sủng.
Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy hướng tâm hồn lên để tham dự phụng vụ thánh.
Làm phép và kiệu nến :
(giáo dân tụ họp ngoài nhà thờ chính)
Chủ tế chào giáo dân như thường lệ và đọc:
Anh chị em thân mến,
Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giu-se dâng cho Thiên Chúa Cha trong đền thánh.
Nhìn từ bên ngoài, ta thấy Người làm theo luật dạy, nhưng thực ra, qua biến cố này, Người đến gặp dân Người. Quả vậy, cụ già Si-mê-on và nữ ngôn sứ An-na, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đã tới đền thánh. Cũng chính nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng mà các ngài đã nhận ra em bé Giêsu chính là Chúa của mình và hoan hỷ loan báo cho những người khác.
Phần chúng ta hôm nay cũng vậy, chúng ta đã được Chúa Thánh Thần quy tụ nơi đây, và chúng ta sẽ cùng nhau tiến về nhà Chúa gặp Ðức Ki-tô. Chắc chắn chúng ta sẽ gặp Người, sẽ nhận ra Người khi bẻ bánh, trong lúc đợi chờ Người trở lại vinh quang.
Làm phép nến:
Lạy Chúa là nguồn ánh sáng thật và là Ðấng tạo thành ánh sáng. Chúa đã chỉ cho cụ già Si-mê-on nhận ra Ðức Ki-tô chính là ánh sáng soi đường cho dân ngoại. Chúng con tha thiết nài xin Chúa ban phúc lành mà X thánh hoá những cây nến này. Xin nhận lời dân Chúa đang tụ họp, miệng ca mừng Thánh Danh, tay cầm đèn cháy sáng: Ước gì chúng con luôn thẳng đường ngay lối tiến đến cùng Ðức Ki-tô là ánh sáng chẳng bao giờ tàn lụi. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Chủ tế thinh lặng rảy nước thánh.
Chủ tế nhận nến và bắt đầu đi kiệu, ngài nói:
Chúng ta cùng an vui tiến bước để chào đón Chúa Ki-tô.
Sau khi đi kiệu thì hát kinh vinh danh thánh lễ như thường
Suy Niệm:
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Hôm nay, Giáo Hội long trọng mừng kính lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Theo luật Do Thái, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Vì vậy, Mẹ Maria và Thánh Giuse, mặc dù biết rõ con mình là Đấng Cứu Thế, vẫn trọn vẹn vâng theo lề luật. Khi đến ngày dâng lễ, họ đã đưa Chúa Giêsu lên Đền Thánh Giêrusalem để dâng Ngài cho Thiên Chúa, như lời Thánh Kinh đã ghi: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa.”
Thưa anh chị em, nhìn từ bên ngoài, chúng ta thấy Chúa Giêsu vâng phục lề luật, nhưng thực ra, chính Người đến để gặp gỡ dân của Người. Tại Giêrusalem, một cảnh tượng hết sức đặc biệt đã xảy ra. Cụ già Simêon, một người công chính, và nữ ngôn sứ Anna, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đã đến Đền Thánh. Simêon, với lòng tin vào lời hứa của Thiên Chúa, đã nhận ra con trẻ mà ông ẵm trong tay chính là Đấng Cứu Thế. Vị ngôn sứ này đã vui mừng loan báo cho mọi người về sự hiện diện của Đấng Mêsia. Niềm vui và niềm tin của họ là minh chứng cho sự nhận biết và đón nhận Đấng Cứu Thế khi Người đến.
Chuyện kể rằng, Có một lần, một người cha đưa con trai mình đến một bác sĩ rất nổi tiếng, hy vọng bác sĩ có thể giúp con mình chữa khỏi bệnh. Sau khi kiểm tra, bác sĩ chỉ nói một câu: "Chúng ta không thể chữa bệnh cho con bạn nếu con không muốn thay đổi." Người cha ngạc nhiên nhưng bác sĩ giải thích rằng, bệnh tật có thể chỉ là dấu hiệu của việc thiếu sự thay đổi trong thói quen sống. Cũng vậy, Chúa Giêsu đến với chúng ta không chỉ để chữa lành thân xác, mà để dẫn chúng ta đến sự thay đổi sâu xa trong tâm hồn. Người đến để chúng ta nhận ra sự cần thiết của sự chuyển hóa trong cuộc đời mình.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Lễ Dâng Chúa vào Đền Thánh không chỉ là một sự kiện tuân thủ lề luật, mà còn có ý nghĩa sâu sắc: Chúa Giêsu là ánh sáng soi đường cho muôn dân, là vinh quang của Israel, là quà tặng tuyệt vời mà Thiên Chúa Cha ban cho nhân loại. Người đến để làm cho thế giới này sáng lên, đem lại sự sống cho những ai đang lầm lạc.
Với ý nghĩa đó, hôm nay các bà mẹ đem con mình đến đây để dâng cho Chúa. Các bà hãy noi gương Mẹ Maria, không chỉ giáo dục con cái mà còn sống gương mẫu, để chính cuộc đời mình trở thành một lời chứng về tình yêu và sự tận hiến. Như Mẹ Maria, dù gặp bao nhiêu khó khăn, các bà vẫn luôn vững tin vào Thiên Chúa, vì mỗi hy sinh, mỗi thử thách trong cuộc sống đều là cơ hội để chúng ta theo gương Chúa Giêsu, Đấng đã đến để đem lại sự sống và ánh sáng cho mọi người.
Chúng ta cũng nhớ rằng, trong Năm Thánh hoàn vũ này, Chúa mời gọi chúng ta đi gặp gỡ và chia sẻ tình yêu thương với những anh chị em đang trong bóng tối, đang lầm lạc. Hãy để ánh sáng của Chúa chiếu rọi qua đời sống của chúng ta, để mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang hiện diện trong từng khoảnh khắc của cuộc sống.
Trong tâm tình đó, giờ đây các bà hãy đứng lên và bế con cái mình lên cung thánh để nhận lấy phép lành của Chúa qua tay linh mục. Nguyện xin Chúa tuôn đổ muôn ơn lành xuống trên các con của chúng ta, và cho chúng lớn lên trong sự yêu thương và bình an, luôn là những bông hoa thơm ngát trong gia đình và trong xã hội. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

SUY NIỆM: DÂNG CHÚA TRONG ĐỀN THỜ
Hôm nay chúng ta cùng nhau kỉ niệm biến cố Chúa Giêsu được tiến dâng cho Chúa. Đây là luật buộc của Do Thái giáo. Mọi con trai đầu lòng khi đủ 40 ngày tuổi, đều phải được đưa đến đền thờ để tiến dâng cho Chúa cùng với những phẩm vật theo luật định. Và Chúa Giêsu trong thân phận của một người Do Thái, Ngài buộc phải tuân thủ luật lệ này.
Tất nhiên, lúc ấy Đức Mẹ và Thánh Giuse là người chủ động. Việc các ngài dâng Hài Nhi Giêsu trong đền thánh, không chỉ dừng lại ở luật buộc, nhưng trong thâm tâm, các ngài mong muốn con mình được Chúa chúc phúc và che chở gìn giữ.
Anh chị em cũng thế thôi, khi đưa những con của mình đến lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chắc chắn anh chị em cũng muốn chúng được thuộc trọn về Chúa và trở thành con của Ngài. Chắc chắn chúng ta cũng ước mong chúng ngày được lớn lên trong ân sủng và sche chở của Thiên Chúa là Cha.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ thưa anh chị em, sở dĩ Chúa Giêsu càng lớn lên, càng thêm khôn ngoan và đạo đức, là vì Mẹ Maria và Thánh Giuse đã không ngừng dâng con của mình lên cho Thiên Chúa mỗi ngày trong suốt cuộc đời.
Sở dĩ về sau Chúa Giêsu có thể giảng được bài Tám Mối Phúc thật đầy tính nhân văn, có thể dạy người ta sống tình Chúa tình người, có thể quảng đại và tha thứ cách vô vị lợi...; là vì Ngài đã học được và thấm nhuần những điều ấy nơi chính đời sống gương sáng của song thân phụ mẫu.
Chúng ta cần học nơi Mẹ Maria và Thánh Giuse về điểm này thưa anh chị em.
Trước hết, mỗi người đừng quên dâng con cái của mình Cho Chúa mỗi ngày trong các Thánh lễ, các giờ kinh và các việc đạo đức khác. Xin Chúa gìn giữ con chúng ta trước những cạm bẫy của cuộc sống này.
Kế đến, đừng ai nghĩ rằng đưa con cái đến nhà thờ rửa tội, và lớn lên cho chúng đi học giáo lý, thế là đủ; cũng đừng ai nghĩ rằng lo cho chúng cái ăn cái mặc, học hành đến nơi đến chốn thế là xong trách nhiệm. Nhưng trong việc nuôi dạy con cái, anh chị em cần lưu ý đến 4 chữ “Thành” sau đây:
Thông thường thì các bậc mẹ chỉ chú tâm lo cho con cái ăn học để chúng “thành tài”, rồi chuẩn bị cho chúng một chút đất đai vốn liếng lập nghiệp, để chúng “thành công” trong cuộc sống. Đó là điều chính đáng và phải lẽ.
Nhưng chữ “Thành” đầu tiên mà anh chị em cần nhắm đến trong việc giáo dục con cái, đó là phải dạy cho chúng “Thành nhân”, tức là thành người. Ngay từ bé, chúng ta phải lưu tâm dạy cho con cái những nhân đức nhân bản: nhân lễ nghĩa trí tín – công dung ngôn hạnh; dạy cho chúng biết nói lời cám ơn, xin lỗi, biết kính trên nhường dưới, trung tín, thật thà... để chúng trở thành một con người biết lễ nghĩa gia phong là gì. Rồi sau đó mới nghĩ đến chuyện nuôi dạy chúng “thành tài” và “thành công”.
Và chữ “Thành” thứ tư là điều mà chúng ta hay quên nhất. Là người ki-tô hữu, chúng ta còn có bổn phận phải giáo dục cái của mình để chúng có thể trở “thành thánh”, tức là mai sau được lên thiên đàng. Nghĩa là mỗi người phải quan tâm, nhắc nhở và dạy bảo con cái trong việc giữ đạo và sống đạo. Chúng ta có cho chúng được cả thế gian này,về sau chúng mất phần linh hồn thì cũng không được ích lợi gì thưa anh chị em.
Tóm lại, trong ngày lễ nến hôm nay, chúng ta được mời gọi khắc ghi 2 điều này: Một là, đừng quên dâng con cái của mình lên cho Chúa mỗi ngày và trong suốt cuộc đời.hai là, hãy nuôi dạy con cái để chúng có thể thành người, thành tài, thành công và mai sau thành thánh.
Và đặc biệt, đừng chỉ dạy con cái bằng lời nói, bằng sách vở, nhưng chúng ta còn và cần phải dạy chúng bằng chính đời sống và gương sáng của mỗi chúng ta. Amen.
Lm. Antôn

SUY NIỆM: TUÂN HÀNH Ý CHÚA
 Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ bao gồm hai sự kiện khác nhau: một là Đức Mẹ dâng con trai cho Thiên Chúa, và hai là Đức Mẹ 40 ngày sau khi sinh được thanh tẩy. Mỗi sự kiện đều có ý nghĩa riêng, nhưng từ thuở nào đến giờ, trong phụng vụ, cả hai đã được nối kết thành một. Đây là lễ “vừa tôn vinh Chúa vừa mừng kính Đức Maria”.
Sau khi sinh hạ Chúa Giêsu được 40 ngày, Mẹ Maria và Thánh Giuse đưa Hài Nhi lên đền thánh Giêrusalem và hiến dâng lên Thiên Chúa đúng theo Lề luật của Môisen. Mẹ Maria cũng được làm phép thanh tẩy như tập tục của người Do thái sau khi sinh con.
Lễ Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ cũng gọi là Lễ Nến, vì cây nến cháy tượng trưng Chúa Kitô là “Ánh Sáng muôn dân”. Cha chủ tế làm phép nến và cùng cộng đoàn rước nến vào Nhà thờ. Giáo dân dùng nến đã làm phép để thắp sáng trên bàn thờ gia đình và trong những trường hợp khó khăn hay bệnh tật.
Hôm nay chỉ đơn sơ chiêm ngưỡng như trong mầu nhiệm Mân Côi thứ bốn Mùa Vui “Đức Bà dâng Đức Chúa Giêsu trong đền thánh, ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy”. Trong lễ dâng đặc biệt này, ta gặp thấy những góc cạnh khác nhau của sự “tuân phục”.
  1. Tuân giữ luật lệ
Biết rõ Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa làm người, nhưng hai ông bà xem trọng việc tuân giữ luật lệ, vốn được quy định trong truyền thống tôn giáo Do Thái. Hai ông bà chu toàn việc lên đền thờ như luật Môsê truyền dạy (Xh 13): dâng con trai đầu lòng lên Thiên Chúa để nhớ về ơn giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Chuyện dâng con chỉ có vậy, nhưng được liên kết với việc Đức Maria được thanh tẩy sau khi sinh, theo quy định từ sách Lêvi, khiến cho ngày lễ bừng lên ánh sáng mới. Nếu theo nhãn giới của Thánh Vịnh, người ta chỉ dám dâng của lễ thanh khiết với tay sạch lòng thanh, thì với Đức Maria, được nên tinh sạch sau việc sinh nở chính là việc cần làm trước khi có thể xuất hiện trước tôn nhan mà trình dâng người con của mình cũng là Con Thiên Chúa làm người. Thành thử, trong cùng một bước lên đền thờ, thánh Giuse và Mẹ Maria đã nêu cao tấm gương tuân giữ khít khao lề luật.
  1. Tuân hành ý Chúa
Hai nhân vật lớn tuổi quen thuộc với đền thờ bỗng dưng được Thánh Thần thúc đẩy đến đúng lúc nghi thức được cử hành cho trẻ Giêsu. Niềm vui của bậc lão thành sau nhiều năm chờ đợi ơn cứu độ cho Israel, giờ đây đã mãn nguyện, không chỉ nghe kể lại như trong lịch sử, mà chính mắt trần đã mở rộng thấy tường, chính đôi tay đã bồng ẵm nâng niu, chính miệng lưỡi đã hát lên ca tụng và công bố cho mọi người biết trẻ Giêsu là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Người”. Và còn có niềm vui của chính thánh gia, dù âm thầm không thành lời nhưng thật đậm đà thằm sâu, đầy vinh quang thánh thiện trong thái độ tuân hành.
Nhưng ơn Chúa thường đi kèm với ý Chúa. Giữa lưng chừng niềm vui đang độ tràn trề, cụ Simêon đã hướng đến Đức Maria bằng lời tiên đoán vận mệnh “một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Như sét đánh ngang tai. Nhưng Đức Maria đã hết dạ tuân hành, cho dẫu trái tim có phải rườm máu. Và đó cũng là bóng thập giá của ngày dâng Con trong đền thờ. Thế mới biết thánh ý cũng gần gũi với thánh giá, và tiến dâng cũng đồng nghĩa với hiến dâng, một lễ dâng sẽ còn phải lập lại dài dài trong đời của Đức Maria và của cả thánh gia.
  1. Tuân theo nề nếp gia phong
Kết thúc lễ dâng, thánh gia trở lại quê nhà và trẻ Giêsu lớn lên cả về tinh thần và thể chất, trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Phúc Âm chỉ kế lại vắn gọn như thế, nhưng chừng đó thôi cũng đủ để hình dung hiệu quả tích cực nối dài của dịp lên đền. “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Trẻ Giêsu cũng thế, phó thác đời mình trong tay cha mẹ, thể hiện từng ngày sự tuân phục, vừa theo định luật tăng trưởng tự nhiên, vừa theo nếp sống tôn giáo giữa mái ấm gia đình. Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay.
Nếu khi được ẵm bồng trên tay, trong Thánh Thần, trẻ Giêsu đã được cụ Simêon ca tụng là “Thiên Chúa viếng thăm dân Người và trở nên Ánh sáng muôn dân”, thì cả quãng đời ẩn danh khiêm tốn, thánh gia đã là khuôn nôi hạnh phúc, thành điểm sáng cho mọi gia đình soi chung. Không có những phép lạ ngoạn mục kiểu Phúc Âm ngụy tác, như lấy đất nặn thành chim rồi thổi hơi vào là biến thành chim thật bay xa; nhưng chắc chắn luôn có những ơn lạ đậm đà bình an dành cho những ai sống tuân theo nề nếp gia phong và yêu thương vâng phục. Không có những công trình hoành tráng được thực hiện hay những việc vĩ đại người người biết đến, nhưng luôn có những việc không tên được làm với trái tim rộng mở cho tình yêu mỗi ngày mỗi thêm lớn mãi.
Ngày Mẹ dâng Con trong đền thánh cũng là ngày trẻ Giêsu trở thành người con hiếu thảo nơi mái ấm Nadaret, trở nên thành viên tốt nơi môi trường xã hội và rất đẹp lòng Thiên Chúa: “Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40).
Theo truyền thống Giáo hội, vào dịp lễ này, người mẹ đem con nhỏ đến Nhà thờ để dâng cho Chúa. Cha chủ tế đặt tay chúc lành và tặng quà cho các cháu nhỏ.
Trong tông huấn “Marialis Cultus”, bàn về lòng tôn sùng kính mến Mẹ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi Mẹ là “Trinh nữ hiến dâng”. Từ năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đặt ngày lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ làm ngày của Đời Sống Thánh Hiến. Chúa Giêsu được dâng hiến cho Chúa Cha nên trọn vẹn thuộc về Cha. Suốt đời, Ngài sống cho Cha, thi hành thánh ý Cha, vâng lời Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết thập giá. “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha“, đây là một hiến dâng trọn vẹn nhất. Những người sống đời thánh hiến muốn noi gương Chúa Giêsu, dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa.Theo lời khuyên của Phúc âm, các Tu sĩ tự nguyện sống đời trong sạch, nghèo khó và vâng lời.
Huấn thị “Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô” của ĐTC Gioan Phaolô II viết cho các Tu sĩ, được đúc kết lại trong ba chữ S: Say mê Đức Kitô, Sống hiệp thông và Sẵn sàng lên đường cho sứ vụ.
Tu sĩ là người cảm nhận tình yêu sâu xa của Thiên Chúa và muốn đáp trả lại. Đó là tình yêu hy sinh, quên mình, phục vụ, tình yêu thể hiện bằng việc làm, bằng chính bản thân. Tu sĩ dâng hiến cả cuộc đời mình cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Chính tình yêu đã khiến các Tu sĩ muốn nên giống Chúa Giêsu. Ba lời khấn chỉ có giá trị với tình yêu trọn vẹn. Ba lời khấn chính là ba khía cạnh biểu lộ một tình yêu. Thiếu tình yêu, những lời khấn trở thành hình thức, nặng nề, trói buộc.
Khi trung thành với lời khuyên của Phúc âm, các Tu sĩ trở nên ánh sáng của Thiên Chúa giữa trần gian. Ánh sáng siêu thoát trên của cải vật chất. Ánh sáng trao ban quảng đại. Ánh sáng tự chế ngự bản thân. Ánh sáng quên mình vì hạnh phúc của người khác. Ánh sáng lý tưởng, nâng tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Ánh sáng của một tình yêu dâng hiến.
Hiệp thông cầu nguyện đặc biệt cho các Tu Sĩ Nam Nữ luôn là người say mê Đức Kitô trong đời sống tâm linh, sống hiệp thông trong tình huynh đệ và luôn sẵn sàng lên đường thực thi sứ vụ để trở nên ánh sáng giữa cuộc đời hôm nay.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
CHÚA KITÔ LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN

Khi đọc lại lịch sử dân Israel, về Đấng Cứu Thế mà họ đã mong đợi trong nhiều thế kỷ, về lịch sử của đền thờ Giêrusalem, và nhất là những hình ảnh huy hoàng, những cảnh tượng vĩ đại mà các ngôn sứ đã tiên báo về sự xuất hiện của Đấng Mêsia, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước đoạn Tin Mừng mà thánh Luca thuật lại hôm nay. Vị vua - Đấng Mêsia mà dân Do Thái mong chờ lại đến trong hình hài một hài nhi mới sinh, được một cặp vợ chồng nghèo bồng ẵm vào đền thờ Giêrusalem. Ôi, Thiên Chúa thật hạ mình biết bao!
Việc Chúa Giêsu được dâng trong Đền Thánh là một trong những cuộc hiển linh của Chúa, đánh dấu sự khởi đầu cuộc sống trần thế của Người. Tân Ước kể cho chúng ta những cuộc hiển linh của Chúa Giêsu thường được diễn ra cách âm thầm, khiêm tốn để tránh việc con người tìm kiếm và chỉ đặt niềm tin vào những điều kỳ diệu, là một cám dỗ mà chúng ta thấy sau này Chúa Giêsu sẽ từ chối.
Hai người cao niên, Simêon và Anna, là hai nhân vật khiêm nhường. Họ đại diện cho tất cả những ai đang khao khát mong chờ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ của hai người già và một em bé đã diễn ra trong sự linh hứng của Thánh Thần, Đấng đã mở mắt cho họ nhận ra Thiên Chúa giấu ẩn, hiền lành và khiêm nhường. Cuộc gặp gỡ này như là phần thưởng dành cho những tâm hồn luôn tín trung và nhẫn nại chờ đợi Thiên Chúa thực thi lời Người đã hứa. Ai trong chúng ta cũng đều biết những thử thách của việc chờ đợi là gì: mất kiên nhẫn, lo lắng, mệt mỏi, và thậm chí có lúc cảm thấy tuyệt vọng. Đường lối của Chúa, chúng ta không thể thấu hiểu. Người tỏ mình ra trong những lời loan báo đầy vinh quang, nhưng cũng chính trong những đau khổ mà Người đã tự mạc khải mình cho chúng ta.
Khi bồng hài nhi Giêsu trên tay, ông Simêon đã tiên tri về sứ mạng tương lai của Người như một sự chia rẽ, một cuộc xung đột “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2,34). Chúa Giêsu đã là dấu chỉ của sự chia rẽ giữa những người tìm kiếm Thiên Chúa bằng sức mạnh và quyền lực, với những người tìm thấy Người nơi khuôn mặt của những người đau khổ và thiếu thốn nhất, những người cô đơn, bệnh tật, thiếu thốn tình cảm.
Ông Simêon cũng nói tiên tri về Đức Maria: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” Đức Maria chắc chắn đã trải nghiệm những đau khổ tột cùng của những chia rẽ xảy ra ở Israel liên quan đến Con của Mẹ: sự chống đối, hận thù, chối bỏ từ phía các nhà chức trách tôn giáo cao cấp nhất, chỉ có các môn đệ và một số ít đi theo Người, đón nhận và thực thi sứ điệp của Người. Và đỉnh cao là thập giá mà Đức Giêsu chịu đóng đinh, nơi đó phơi bày tất cả sự mâu thuẫn mà con người phải nhìn nhận, vì “điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” lại là nơi biểu lộ “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (x. 1 Cor 1,23-24).
Nếu Đức Maria đã chia sẻ số phận của Đấng Mêsia con Mẹ khi chấp nhận “một lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn”, thì tất cả những ai muốn làm môn đệ, muốn đi theo Đấng ấy cũng sẽ chia sẻ một số phận như Người: “Trò không hơn thầy... Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng... Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét” (Mc 13,9.13). Đó là lời Chúa Giêsu tiên báo cho những ai muốn làm môn đệ Người. Chúa không sai các môn đệ của mình đi làm hài lòng thiên hạ, nhưng họ được sai đi để loan báo Tin Mừng Cứu độ, chấp nhận chịu phỉ báng và chống đối hầu làm cho “ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra” (Lc 2,35).
Dẫu vậy, đó không phải là tất cả số phận của người đi theo Chúa. Danh Chúa Giêsu đã tồn tại qua nhiều thế kỷ và vẫn là “dấu chỉ của sự mâu thuẫn.” Nhưng trước sự vô tín cũng như sự bách hại, sự bình tâm vẫn ở trong tâm hồn các tín hữu, bởi vì họ có được sự bình an mà Chúa Kitô đã mang đến: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” (Ga 14,27), và trên hết là ơn cứu độ dành cho người đã bền đỗ đến cùng. 
Như ông Simêon và bà Anna, nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta cũng có thể nhận ra con của Đức Maria là Con Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần vẫn luôn hoạt động âm thầm trong tâm hồn con người. Người soi sáng, hướng dẫn chúng ta bằng ánh sáng của Người. Ánh sáng này không bao giờ cưỡng bức, nhưng luôn là lời mời gọi mở rộng tầm mắt và con tim của chúng ta. Và khi đối diện với ánh sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể buông mình cho ánh sáng đó soi sáng cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta cũng có quyền nhắm mắt từ chối và tiếp tục ở lại trong bóng tối của mình.
Chúng ta không có quyền phán xét những người không theo Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Ánh Sáng thế gian. Tại sao họ không đi theo con đường của Người? Tại sao họ không nhận thức được Ánh Sáng? Tại sao họ lại khép kín tâm hồn mình trước Ánh Sáng này? Chúng ta không biết. Nhưng, điều chúng ta phải làm, đó là trở thành ánh sáng cho họ.
Một cây nến sẽ trở nên vô dụng nếu không được thắp sáng. Cuộc đời chúng ta cũng chỉ hữu ích khi phản chiếu được ánh sáng Chúa Kitô. Như Gioan Tẩy Giả, chúng ta ý thức mình không phải là “ánh sáng soi đường cho muôn dân”, nhưng chúng ta có thể làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng là Ánh sáng cho thế gian. Chính Người đã nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5,14-16)
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, để như Simêon và Anna, chúng ta nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ và là Ánh Sáng của nhân loại, và chúng ta loan truyền điều đó cho người khác bằng đời sống chứng tá của chúng ta trong cuộc sống hàng ngày.
Xin ánh sáng của Chúa Kitô soi sáng để tất cả chúng ta đều trở thành con cái Ánh Sáng! Amen.
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

SUY NIỆM: NIỀM HY VỌNG ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN
Chúng ta có những cuộc giới thiệu về Chúa Giê-su khi Người bắt đầu thi hành sứ vụ, thí dụ khi Chúa chịu phép rửa của Gio-an hoặc khi Người đến hội đường Na-da-rét.  Tuy nhiên chúng ta đã có cuộc giới thiệu về Người rất sớm trong dịp Người là một hài nhi được dâng vào Đền Thánh Giê-ru-sa-lem theo luật Mô-sê (Lv 12).  Vậy Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta điều gì về sứ mệnh của Hài Nhi Giê-su khi Người được cha mẹ đem dâng cho Thiên Chúa trong Đền Thánh?  Mượn lời tiên tri của ngôn sứ Ma-la-khi, Phụng vụ ám chỉ việc Hài Nhi được đem lên Đền Thánh giống như “Đức Chúa đi vào Thánh Điện” của Người (bài đọc 1).  Đoạn trích thư Do-thái thì giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng mang lấy huyết nhục chúng ta, “trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín, để đền tội cho dân” (bài đọc 2).  Sau hết là bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca thuật lại tỉ mỉ cuộc dâng hiến ấy, nhưng đặc biệt lại có sự xuất hiện của ông già Si-mê-ôn và nữ ngôn sứ An-na là những biểu tượng cho niềm mong đợi lời Thiên Chúa hứa với nhân loại từ lâu đến nay được thể hiện.
a)  Hài Nhi Giê-su được dâng vào Đền Thánh chính là“Chúa Thượng đi vào Thánh Điện”.  Càng gần tới thời Tân Ước, những điều các ngôn sứ nói về Đấng Cứu Độ càng rõ ràng hơn.  Một trong những điều ấy đã được ngôn sứ Ma-la-khi ghi lại như chúng ta nghe đọc trong bài đọc 1 hôm nay:  “Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này:  ‘Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta.  Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người’”.  Không dám chắc chắn, nhưng chúng ta có thể hiểu Lời Chúa phán đây ám chỉ thánh Gio-an Tiền Hô và Hài Nhi Giê-su.  Như chúng ta biết, tám ngày sau khi ra đời, Hài Nhi chịu phép cắt bì và được đặt tên là Giê-su;  theo luật thanh tẩy, Mẹ Ma-ri-a phải đợi ba mươi ba ngày nữa rồi mới đem con dâng cho Thiên Chúa trong Đền Thánh.  Đoạn sách ngôn sứ Ma-la-khi giới thiệu Hài Nhi là Chúa Thượng hoặc Đức Chúa đi vào Thánh Điện.  Nhưng Chúa Thượng đi vào Thánh Điện để làm gì?  Nói khác đi, “sứ mệnh” Chúa Thượng sẽ thi hành là gì?  Ngôn sứ mô tả công việc của Chúa Thượng là thanh tẩy, tựa như lửa của thợ luyện kim hoặc thuốc tẩy của thợ giặt.  Hình ảnh này tương tự hình ảnh con chiên được hiến tế trong Thánh Điện để xóa bỏ tội lỗi dân chúng.  Hôm nay Hài Nhi Giê-su được dâng hiến trong Đền Thánh theo lề luật, nhưng mai kia Người sẽ tự hiến tế trên thập giá để xóa bỏ tội lỗi trần gian.
b)  Ngày xưa, mỗi ngày vị thượng tế phải vào Đền Thờ dâng lễ tế hy sinh đền tội cho dân chúng.  Ngày nay, Chúa Giê-su xuống thế làm người giống như chúng ta, để thi hành sứ mệnh cao cả là làm “một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân”.  Nhưng sự khác biệt là Chúa Giê-su chỉ hiến tế thân mình trên thập giá một lần thì đã đủ để đền tội cho toàn thể nhân loại mọi thời mọi nơi cho đến ngày tận thế.  Hình ảnh Chúa Giê-su, vị Thượng Tế nhân từ và trung tín, quả thực nói lên hình ảnh Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội lỗi trẩn gian.  Người nhân từ và hiền lành như con chiên bị đem đi giết.  Người trung tín vì Người vâng lời và chấp nhận cái chết trên thập giá.  Chúa Giê-su đã hoàn tất “việc thờ phượng Thiên Chúa” khi Người hiến thân trên thập giá một lần là đủ.  Trong khi đó, các thượng tế có bổn phận làm việc “thờ phượng Thiên Chúa” bằng cách mỗi ngày họ phải vào Đền Thờ dâng lễ tế đền tội cho mình và cho dân.
c)  Mục đích Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se đem Hài Nhi Giê-su lên Đền Thờ là để tuân thủ luật thanh tẩy và dâng hiến con đầu lòng cho Thiên Chúa.  Các ngài là những người đạo đức và rất mực tôn trọng Lề Luật.  Nhưng các ngài cũng có những tâm tình giữ kín trong lòng.  Đây là dịp các ngài cảm tạ Thiên Chúa và xin vâng theo thánh ý Người.  Tuy nhiên đây cũng là dịp Chúa Thánh Thần giới thiệu Đấng Cứu Độ cho nhân loại qua ông Si-mê-ôn và bà An-na.  Lời Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ đến trần gian đã được tiên báo trong Tin Mừng nguyên thủy (Sáng Thế 3:15) và tiếp tục được nhiều vị ngôn sứ nói đến.  Hôm nay tại Đền Thờ, việc thể hiện lời hứa ấy đã được ông Si-mê-ôn công bố khi ông ẵm ấy Hài Nhi trong tay và chúc tụng Thiên Chúa rằng:  “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.  Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”.  Ông Si-mê-ôn đã thay mặt cho nhân loại đón nhận Đấng Cứu Độ.  Cùng phụ họa với ông để cảm tạ Thiên Chúa, lại có sự hiện diện của bà An-na nữa.  Khung cảnh này khiến chúng ta liên tưởng đến cảnh tượng trái ngược với cảnh tượng ông A-đam và bà E-va bị Thiên Chúa lên án trong vườn địa đàng!  Một đàng là xấu hổ cúi đầu lãnh nhận án phạt, một đàng là cất tiếng cảm tạ lòng Chúa thương xót.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Hiểu biết sứ mệnh của Chúa Giê-su là cứu độ chúng ta, ta hãy mau mắn tiếp đón Người.  Như “Chúa Thượng đi vào Thánh Điện”, Chúa Giê-su cũng muốn bước vào tâm hồn chúng ta là Đền Thánh của Người.  Vậy chúng ta có thể làm như ông Si-mê-ôn và bà An-na, thay vì được ẵm Chúa trên tay thì ta hãy rước Chúa vào lòng và thưa với Người:  Lạy Chúa, chính mắt được nhìn thấy ơn cứu độ!
Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi  
SUY NIỆM: LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN THỜ
Mẹ Maria và thánh cả Giuse biết rằng mọi sự đều từ Chúa mà đến và mọi sự đều phải trở về với Chúa. Trẻ Giêsu là một quà tặng bởi Chúa mà đến, và do đó hai ngài lên Giêrusalem để dâng lại cho Chúa. Các gia đình, nhất là các bà mẹ, hôm nay cũng mang con đến nhà thờ dâng cho Chúa, cảm tạ Chúa, vì sự sống Chúa đã ban cho nơi con cái.
Chúng ta hết lòng quí trọng quà tặng sự sống này. Không bao giờ đối xử với sự sống như một sở hữu hay như một cái gì chúng ta chế tạo ra, để rồi tưởng mình có quyền muốn giữ thì giữ, muốn bỏ thì bỏ. Chúa là Đấng Tạo Hóa đã ban sự sống cho chúng ta và đang nâng đỡ cho mọi sự được tồn tại. Ngài ban quà tặng sự sống ấy cho chúng ta, chúng ta phải làm cho nó được phát triển và kiện toàn. Trẻ Giêsu mà Mẹ Maria ẳm trong lòng và Simêon bồng trên đôi cánh tay già nua, tuy bé bỏng nhưng là Đấng Cứu độ muôn loài.
Như Mẹ Maria ẳm trẻ Giêsu trong lòng, và như Simêon bồng Người trong đôi cánh tay già nua, là Chúa cả trời đất. Chúng ta cũng hãy trân trọng và chăm lo cho những đứa con bé bỏng của chúng ta. Biết đâu những đứa trẻ bé bỏng hôm nay mai kia sẽ thành những người lãnh đạo Giáo Hội và đất nước.
Ngoài ra, chúng ta phải làm hết sức mình có thể để Chúa Kitô trở nên sự sống của chúng ta, và qua chúng ta, Chúa cũng trở nên sự sống cho mọi người chung quanh chúng ta, nhờ các hoạt động từ thiện truyền giáo của chúng ta.
Chúng ta nghe ông Simêon nói với Đức Mẹ rằng Chúa Kitô là dấu hiệu cho người ta chống đối: có những người nhờ Ngài mà đứng lên, có những kẻ vì Ngài mà phải ngã xuống, có những người hân hoan đón nhận sự sống Chúa mang lại, có những người lại tìm cách tiêu diệt sự sống ấy từ trong trứng nước.
Trẻ Giêsu được dâng trong đền thờ khiến chúng ta nghĩ đến bao nhiêu em bé sinh ra đời. Chúng ta nức lòng nghĩ đến những em bé được chờ đợi và chào đón, nhưng cũng đau lòng nghĩ đến những trẻ sơ sinh không được đón nhận, những trẻ em bị bỏ rơi không thể sống sót vì thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ và người thân. Nhìn thánh gia thất, chúng ta nôn nao nghĩ đến những gia đình sum vầy cha mẹ con cái đầm ấm hạnh phúc, nhưng cũng nặng lòng nghĩ đến những đôi vợ chồng khao khát niềm vui có con cái mà hy vọng ấy dường như mỗi lúc một vô vọng và chúng ta thành tâm cầu nguyện cho họ.
Nhìn Chúa Hài Đồng được dâng lên, chúng ta cũng nghĩ đến bao nhiêu thai nhi không được phép đón nhận ngày sinh, cuộc sống và ánh sáng mà Thiên Chúa làm người mang đến cho mọi người, vì sự yếu đuối của con người, vì những toan tính và kế hoạch ích kỷ của những con người khác, cũng như của các cơ cấu xã hội, ngay cả bởi những cha mẹ vô trách nhiệm và gia đình của các thai nhi ấy.
Nghĩ đến những trẻ em bị giết chết ngay trong lòng mẹ không được sống đến lúc mở mắt chào đời, chúng ta cũng nghĩ đến những bà mẹ phải bị ám ảnh dằn vặt vì phá thai, dưới bất cứ lý do gì (vì yếu đuối, bị lừa gạt, bị lạm dụng hay vì khó khăn kinh tế, vì công ăn việc làm). Ý nghĩ phá thai là giết người, và giết chính con mình sẽ làm cho những người mẹ ấy phải đau khổ tâm lý trong suốt cả cuộc sống. Quả thế, một số các mẹ và các chị đã ấm ức khóc hay nước mắt lưng tròng khi liên tưởng đến nỗi khổ tâm của mình hay con cái của mình vì hoàn cảnh đã phá thai. Nhiều nghiên cứu tâm lý và xã hội kết luận rằng đa số người phá thai có nguy cơ mắc bệnh tâm thần và ung thư cao vì những nỗi ân hận ray rứt kéo dài triền miên trong cuộc sống.
Chúng ta cũng đau thương nghĩ đến nhiều trẻ nít và vị thành niên bị lạm dụng tình dục và hãm hiếp, hay sống thử phóng túng buông thả luân lý để rồi phải phá thai hay phải làm mẹ khi tuổi đời còn quá non nớt, không đủ khả năng hay không thể nuôi con, đành phải bỏ rơi con trong thùng rác, trên vỉa hè bệnh viện hay xó chợ, cho ruồi bâu, kiến rúc… Một số em được may mắn sống sót và lớn lên trong các cô nhi viện, một số khác gặp hoàn cảnh tệ hơn sống lây lất bụi đời, gánh chịu không biết bao nhiêu cơ cực cay đắng trên tâm hồn và trên thân xác, vì không có được một mái ấm gia đình, không biết cha mình là ai, mẹ mình là ai và đang ở nơi đâu!
Nghĩ tới những em bé bất hạnh bị bỏ rơi vô thừa nhận ấy, chúng ta tuy thông cảm và tôn trọng, nhưng cũng bất bình chua xót nghĩ đến những đôi vợ chồng ích kỷ chỉ nghĩ đến tự ái, đau khổ hay vui sướng của bản thân mà không nghĩ đến những hậu quả đau thương cho con cái, làm cho gia đình đổ vỡ, ly dị khiến các em trở nên mồ côi cha mẹ, dù cha mẹ các em đang còn sống cả đó, và nhiều em bị đẩy ra đường tự kiếm sống, làm cho bao nhiêu em bị hành hạ và giết chết hằng ngày trên khắp nẻo đường đời, dưới đủ mọi hình thức nghèo đói, bệnh tật, mại dâm, ma túy, HIV. Các em không chỉ bị giết chết về thân xác, mà còn bị giết chết dần mòn về tâm hồn và đức tin: những lạm dụng và tội lỗi đã giết chết lòng trong trắng của các em, đã đánh mất tình thương, niềm tin và hy vọng của các em vào con người, vào cuộc đời, lắm khi cả vào Thiên Chúa nữa.
Ngôi Lời nhập thể và được tiến dâng hôm nay nâng đỡ chúng ta. Ngài là Thiên Chúa đã mặc lấy thịt xương máu huyết để trở nên con người và để ở với chúng ta, chia sẻ thân phận con người chúng ta, đau khổ với chúng ta, đau khổ vì chúng ta và đau khổ cho chúng ta, cho đến chết và chết tất tưởi trên thập giá. Ngài hiến ban mạng sống của Ngài để cho chúng ta được sống, được cứu độ. Đó là sứ điệp thúc đẩy chúng ta tìm lại những giá trị của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người. Chúa không đến cất đi đau khổ. Ngài cũng không đến để giải thích đau khổ. Ngài đến để chia sẻ đau khổ với con người, nâng đỡ con người và mời gọi con người chia sẻ phận người với những con người khác, vốn là đồng bào, đồng loại và anh chị em của mình.
Chúng ta nghiêng mình cảm phục và ca ngợi những tấm lòng từ thiện, những đôi vợ chồng son sẻ đã mở rộng lòng nhân ái đón nhận các trẻ em mồ côi hay bị bỏ rơi, tàn tật để cho các em có cha có mẹ và một mái ấm gia đình. Nhưng chúng ta cũng nghiêm khắc thức tỉnh lương tâm và kêu gọi những con người đã gây ra những mảnh đời đau khổ cho đồng loại qua việc lạm dụng tình dục, sở khanh, cưỡng hiếp…, hãy thôi đi các việc thất đức đó, hãy kính trọng Thiên Chúa, tự trọng, tôn trọng phẩm giá và tình yêu con người. Chúng ta hãy cùng nhau kiến tạo cộng đồng xã hội và gia đình thành thiên đường mà hưởng, đừng biến chúng thành địa ngục mà phải chịu đựng.
Lễ dâng Chúa hôm nay mở ra cho chúng ta những cái nhìn mới, những con đường mới để suy tư và hành động, để cảm nghĩ và nói năng, để sống và yêu thương, để trao ban và lãnh nhận. Chúng ta tin, chúng ta hy vọng và chúng ta quyết tâm làm một cái gì cho những người kém may mắn hơn chúng ta: cô nhi, quả phụ, khuyết tật, nghiện ngập, HIV… Chúng ta cố gắng hết sức mình để mang hy vọng và tình thương cho kẻ khác, để làm cho Chúa Giêsu được sinh ra trong tâm hồn và cuộc đời của những người chưa biết Chúa, cũng như để làm cho Chúa Giêsu được sinh ra lại và lớn lên trong tâm hồn và cuộc đời của những ai đã từ khước Chúa vì tội lỗi của họ.
Nhưng thưa quí ông bà và anh chị em, Mình Máu Thánh Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước lấy, quyền năng của Chúa đã biến thể từ bánh rượu là lương thực hằng ngày của con người chúng ta. Vậy nếu chúng ta dâng lên Ngài bản thân chúng ta, cuộc đời đời chúng ta, giáo xứ chúng ta, gia đình chúng ta, mọi người chúng ta thương mến, công việc làm ăn, học hành, kinh nguyện của chúng ta, những niềm vui và hạnh phúc, những nỗi buồn phiền và gánh nặng vất vả của chúng ta; cả những kẻ thù nghịch, những người chúng ta không thương hoặc những người ghét bỏ chúng ta, cả những tính xấu và tội lỗi của chúng ta… thì quyền năng của Chúa cũng sẽ biến đổi thành cái gì tốt đẹp hơn cho chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng điều đó, vì tình yêu của Chúa thì lớn hơn tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn luôn dùng gương sáng hướng dẫn chúng con, và hôm nay Chúa được dâng lên cho Chúa Cha. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn chân thành dâng chính mình chúng con cho Chúa mỗi ngày. Mỗi buổi mai khi vừa thức dậy, chúng con sẽ dâng mình lại cho Chúa. Chúng con nài xin Chúa ơn luôn có Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng con, luôn lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần dạy bảo, thúc giục, để tất cả chúng con sống hiệp nhất yêu thương hầu làm chứng tá cho Nước Chúa ở giữa trần gian. Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được Chúa yêu thương chúng ta và giúp chúng ta làm cho người khác cũng cảm nhận được Chúa yêu thương họ, ban bình an và niềm vui cho họ, bất chấp tất cả những gì có thể xảy ra. Amen.
Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy
SUY NIỆM: MẪU GƯƠNG CỦA BẬC CHA MẸ
Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông: “Tại sao con lại chịu khó và mất thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?”
Vị Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời, “Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống” (Trích trong Thiên Phúc: Maria Mẹ Tuyệt Mỹ, Tr. 27-28).
Vai trò của cha mẹ
Làm cha mẹ, khi thấy con cái treo những bức hình của những ca sĩ, những tài tử, diễn viên kịch ảnh, những anh hùng thể thao… và khi thấy chúng lúc nào cũng mê man nghe nhạc, nghe khi vừa thức dậy, khi ăn, khi đi học, khi ngồi làm bài, khi làm việc vặt trong nhà, thì chúng ta e ngại là con cái chúng ta sẽ bị ảnh hưởng qúa nhiều bởi những mẫu người đó. Tuy nhiên, khảo cứu tâm lý cho chúng ta biết, khi tuổi trẻ truởng thành hơn thì chúng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những mô phạm nhất thời đó. Người có ảnh hưởng nhiều nhất nơi con cái là cha mẹ. Cha mẹ cần dạy và sống những gía trị đạo đức và luân lý để con cái noi theo khi chúng còn sống chung dưới mái ấm gia đình. Một bà mẹ nhận xét, “Cái quan trọng trong đời sống của gia đình không phải là những món ăn sang trọng, cái bếp sạch sẽ ngăn nắp, hay biết sắp xếp liệt kê những việc phải làm trong nhà. Không gì có thể thay thế việc cho con cái chúng ta nhìn thấy tình thương và sự tận tụy hy sinh của chúng ta đối với chúng. Đồ chơi, quần áo mới, dĩa nhạc, đồ trang sức sẽ không thể thay thế tấm lòng hy sinh và tình thương của cha mẹ tỏ ra đối với con cái.”
Những tấm gương
Khi chúng ta mừng lễ kính Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, phúc âm thánh Luca giới thiệu cho chúng ta hình ảnh những con nguời tôi trung của Thiên Chúa: Giuse, Maria, Simeon và Anna. Là bậc cha mẹ gương mẫu, là đôi vợ chồng đạo đức, đầy lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Khi vừa đủ ngày, Giuse và Maria đem con lên đền thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Hành động Hiến Dâng của các ngài biểu lộ một đức tin sâu đậm, và lòng xác tín yêu mến lề luật của Chúa. Các ngài dâng Con không phải chỉ bằng môi miệng hay lời kinh suông, nhưng còn kèm với của lễ tuy đơn sơ nhưng gói gọn cả tấm lòng đối với Thiên Chúa trong khả năng của các ngài. Hơn nữa, cho dù được tiên báo là con mình sẽ như một Luỡi Gươm Đâm Thấu Tâm Hồn, các Ngài vẫn can đảm lãnh nhận và chu toàn trách nhiệm dậy dỗ con. Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Được như thế là do bởi cha mẹ Ngài là những nguời công chính và đạo hạnh.
Hầu hết những nguời làm cha mẹ đều có tình thương yêu đối với con cái. Tuy nhiên không phải ai cũng biết cách tỏ tình thưong yêu và phương cách dậy dỗ giáo dục con cái cho đúng. Việt Nam chúng ta có câu, “Cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh.” Câu này chỉ trúng một phần nhỏ. Để chu toàn trọng trách làm cha mẹ, bậc cha mẹ còn có bổn phận tìm hiểu và học hỏi đào sâu về đức tin, về tâm lý và luân lý để huấn luyện dậy dỗ con mình lớn lên trong đường lối của Thiên Chúa.
Nhận ra Đấng Cứu Thế
Khi đến đền thờ, các ngài gặp hai Nhân Vật cao niên Simeon và Anna. Con trẻ Giêsu mới chỉ được có 40 ngày. Ông Simeon và bà Anna chưa hề gặp con trẻ và cha mẹ của con trẻ. Nhưng tại sao họ đã nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế? Sở dĩ họ nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế bởi vì Simeon là Người công chính biết kính sợ Thiên Chúa, cho nên lòng trí của ông luôn tỉnh thức. Ông đã nghe và nhận ra tiếng thúc đẩy của Thần Khí và ông đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi ông đã được nhìn thấy Chúa Giêsu và ẵm bồng Ngài thì ông mãn nguyện sung sướng. Ông Simeon đã nhìn ra giá trị đích thực và không còn luyến tiếc sự đời. Do đó, ông xin bằng lòng xuôi thác, “Lạy chúa bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt tôi đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn cho muôn dân.” Cũng thế, bà Anna, sau khi chồng chết, đã thủ tiết và dành cuộc đời của bà sống ăn chay cầu nguyện trong đền thờ trông chờ Đấng Cứu Thế. Vì có tấm lòng thành kính và sống trong tinh thần chuẩn bị và mong chờ Đấng Cứu Thế cho nên bà cũng đã được diễm phúc gặp Ngài và nhận ra Ngài để công bố và xác nhận cho những nguời khác về Đấng Cứu Thế.
Tuy nghèo túng nhưng Giuse và Maria vẫn có thể tìm được của lễ để dâng cho Thiên Chúa và chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ. Phần chúng ta, chúng ta có thể liệu được những gì để dâng cho Thiên Chúa và làm những gì để nói lên tinh thần của bậc làm cha làm mẹ đối với con cái? Trong tuổi già lưng còng mắt kém, nhưng ông Simeon và và Anna vẫn có thể nhìn và nhận ra Đấng Cứu Thế. Phần chúng ta, chúng ta có nhận ra Chúa Giêsu trong hoàn cảnh sống hàng ngày không?
Lm. Gioan Trần Khả
SUY NIỆM: CHÚA GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG
Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng vào Đền Thánh, đưa chúng ta đi từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến Mầu Nhiệu Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra và sống trong xã hội loài người, bị luật lệ loài người chi phối, theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” ( Lc 2, 23 ) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8). Ông Symêon người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là ” Ánh Sáng muôn dân ” (Lc 2, 32).
Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người “(x. Phụng vụ Byzantine).
Tại sao Con Thiên Chúa lại phải dâng cho Thiên Chúa và Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền phải chịu thanh tẩy?
Theo thánh Dimitri de Rostov: “Mẹ Thiên Chúa tiến vào Đền Thánh vâng theo Luật Chúa, tay bồng ẵm chính Đấng là Lề Luật. Mẹ là Đấng vô tội, tinh tuyền không tì vết đến xin điều mà Mẹ không cần là thanh tẩy. Mẹ không nhận lãnh sự khoái lạc sung sướng của phu quân, đã sinh con mà không đau đớn, Mẹ được gìn giữ tinh tuyền không tì vết trước khi sinh và sau khi sinh Đấng là nguồn suối trong sạch, há Mẹ lại không tinh sạch sao? Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Mẹ! Quả không bị hư hoại bởi cây, cây không bị nhơ bẩn bởi quả: Đức Trinh Nữ Rất Thánh vẫn trinh khiết vẹn tuyền sau khi sinh hạ Đức Kitô, Con lòng Mẹ. Mặt Trời công chính không làm tổn thương sự đồng trinh của Mẹ. Lẽ thường, máu không làm ô uế Cửa thiên đàng theo luật tự nhiên, Thiên Chúa ngập tràn ánh sáng thần linh đã vượt qua Cửa này, gìn giữ sự đồng trinh của Mẹ”.
Thánh Phaolô nói: “Vậy bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, giống y như vậy, các điều ấy Ngài cũng đã thông chia, để giải thoát những kẻ vì sợ chết mà suốt cả bình sinh sa vòng nô lệ” (Dt 2,14-15). Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: ” Vì thiết tưởng không phải Thiên Thần được Ngài bao bọc, nhưng Ngài bao bọc dòng giống Abraham…Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,16-17).
Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu không buộc phải tuân theo nghi thức này, nhưng vì khiêm nhường và cũng để cho nhân loại noi theo mà tuân giữ luật Chúa, nhất là để cứu con người Chúa Giêsu đã làm điều đó, nên lễ này được gọi là Lễ Thanh Tẩy.
Hy Tế Cứu Chuộc
Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, mà chúng ta cử hành ngày 02 tháng 01 có một vị trí đặc biệt: vì lễ này loan báo Hy Tế Cứu Chuộc mang lại ơn cứu độ sau này. Đức Maria và thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, dù là Con Thiên Chúa, Đấng giầu sang phú quí để dâng vào Đền Thánh với của lễ đơn sơ là “cặp bồ câu non”! Đây là lần đầu tiên loan báo về Hy Tế Thánh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người mạc khải cho chúng ta, việc dâng hiến này ám chỉ tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua trung gian cần thiết của Đức Trinh Nữ Maria đồng công cứu chuộc. Đây là Hy Tế đền tội hoàn hảo duy nhất cứu chuộc nhân loại. Lễ này là “bản lề”chuyển tiếp giữa hai mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền tin) và Cứu Chuộc (Phục Sinh). Chúa Giêsu đến trần gian (Nhập thể), để (Cứu chuộc) chúng ta.
Sao lại làm phép nến và rước nến hay gọi là Lễ Nến?
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Lời của cụ già Symêon nói: “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Quả thật, hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ



 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây